So với những xí nghiệp khai thác hầm lò của ngành Than nói chung, của Công ty Than Uông Bí nói riêng, Xí nghiệp Than Hồng Thái gặp phải những khó khăn mang tính đặc thù hơn những đơn vị khác, đó là Xí nghiệp có một diện khai thác rộng, điều kiện địa chất ở các khu vực sản xuất thường xuyên có biến động lớn và phức tạp. Trong năm 2003, do điều kiện thời tiết diễn biến thất thường, đặc biệt trong quí II và quí III năm 2003, mưa nhiều ngày, lượng mưa lớn kéo dài đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, công tác an toàn lao động luôn bị đe doạ, thiết bị vận tải trong các hầm lò còn thiếu thốn không đồng bộ và kém chất lượng; lực lượng thợ lò, cơ điện lò vẫn còn thiếu, và chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất ở những khu vực khó khăn. Đứng trước những khó khăn cơ bản đó, tập thể CBCNV của Xí nghiệp Than Hồng Thái đã kịp thời khắc phục mọi khó khăn, năng động sáng tạo trong lao động sản xuất để góp phần hoàn thành kế hoạch cho chính Xí nghiệp và Công ty. Ngay từ đầu năm 2003, lãnh đạo Công ty đã chỉ đạo, bố trí, sắp xếp hợp lý bộ máy quản lý điều hành, có đủ năng lực đáp ứng được những yêu cầu sản xuất kinh doanh, đối mặt với những khó khăn… Bên cạnh đó, lãnh đạo Xí nghiệp và các phòng, ban chức năng đã có phương án, chuẩn bị chu đáo về công nghệ khai thác mới, đưa vì chống lò thủy lực đơn vào lò chợ, sẵn sàng phục vụ các điều kiện sản xuất tốt nhất cho các phân xưởng hầm lò.
Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Công ty, các ban, ngành đoàn thể của Tcty Than Việt Nam, kết hợp với sự cố gắng nỗ lực, lòng quyết tâm cao, sự đoàn kết nhất trí của tập thể CBCNV toàn Xí nghiệp, Than Hồng Thái đã vươn lên thực hiện hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2003. Tổng doanh thu đạt 64,3 tỷ đồng, khai thác than nguyên khai đạt 223.000 tấn; đào lò mới được 4.390 mét; bốc xúc đất đá đạt 22.270 m3. Thu nhập bình quân toàn Xí nghiệp đạt 1.800.000 đồng/người/tháng, riêng công nhân hầm lò đạt 2.700.000 đồng/người/tháng. Năm 2003, Xí nghiệp đã thực hiện các hợp đồng kinh tế với tổng trị giá là 26 tỷ đồng. Năm 2003, công tác khoán chi phí vật tư của Xí nghiệp từng bước được nâng cao, đã xây dựng bổ sung các qui chế khoán chi phí cho các phân xưởng tương đối hợp lý, gắn liền với chế độ thưởng phạt trong quá trình sản xuất. Qua đó, hiệu quả về quản lý kinh tế của Xí nghiệp đã được nâng cao.
Trong công tác kiểm tra an toàn và bảo hộ lao động, lãnh đạo Xí nghiệp đã đặc biệt chú trọng, quan tâm chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch BHLĐ ngay từ đầu năm, ban hành đầy đủ các qui trình, qui phạm cho từng công việc cụ thể trong khai thác. Xí nghiệp đã lắp đặt được thiết bị báo động khí mê tan trong hầm lò, trang bị và cấp phát bình tự cứu cho thợ lò. Ngoài ra, Xí nghiệp còn tăng cường công tác kiểm tra an toàn lao động đột xuất tại các phân xưởng hầm lò vào ca II, ca III; tổ chức công tác tuyên truyền rộng khắp trong CNVC thực hiện đầy đủ những qui định về ATLĐ-PCCN. Qua đó, trong năm qua, tai nạn lao động không còn là điều quá lo ngại của toàn Xí nghiệp. Trong công tác điều hành, đây là khâu tổng hợp và quyết định trực tiếp đến tiến độ sản xuất, khối lượng công việc và hiệu quả kinh tế của Công ty. Năm 2003, Xí nghiệp đã củng cố và bổ sung thêm cán bộ có đủ năng lực, trình độ để chỉ đạo, điều hành; thường xuyên có các cán bộ bám sát các đơn vị sản xuất, kịp thời giải quyết, xử lý những khó khăn xảy ra. Xí nghiệp còn bố trí lực lượng trực sản xuất 24/24h để cập nhật tình hình của các phân xưởng, nắm được diễn biến sản xuất, từ đó có phương án giải quyết nhanh nhất những khúc mắc, đảm bảo an toàn cao nhất cho sản xuất. Bên cạnh đó, công tác đời sống cho CBCNV cũng được đặc biệt chú trọng, việc ăn ở sinh hoạt của công nhân tại các khu tập thể đã dần được ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân yên tâm lao động. Để đảm bảo sức khoẻ và công bằng cho CBCNV, Xí nghiệp đã áp dụng nhập thực phẩm một giá đối với tất cả các bếp ăn, thường xuyên duy trì thực đơn mẫu theo từng ca phục vụ, tài chính công khai trên bảng tin của các bếp ăn trong Xí nghiệp. Năm 2003, Xí nghiệp đã phục vụ các mức ăn với giá trị ước tính khoảng hơn 2 tỷ đồng, luôn đảm bảo VSAT thực phẩm và chất lượng dinh dưỡng cho người lao động. Thêm nữa, Xí nghiệp luôn thực hiện tốt các yêu cầu trong việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho CBCNV, đảm bảo tốt nhất sức khoẻ của người lao động và giảm thiểu tối đa những bệnh nghề nghiệp.
Qua những kết quả đạt được trong sản xuất kinh doanh, cũng như những công tác phong trào đoàn thể đã đạt được trong năm 2003, Xí nghiệp Than Hồng Thái lại tiếp tục vững tin bước vào một năm mới với những nhiệm vụ mới trong năm 2004, tiếp tục chủ động nắm bắt tình hình biến động địa chất trong từng khu vực khai thác; đẩy mạnh công tác quản lý, điều hành có hiệu quả cao hơn nữa, đảm bảo định mức trong việc sử dụng vật tư thiết bị, nhằm hạn chế thất thoát, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống chung của CBCNVC Xí nghiệp.
Năm 2003-một năm mang những dấu ấn đầy ý nghĩa đối với toàn ngành Than Việt Nam, đó là bước bứt phá ngoạn mục với chiến lược “Khai thác gắn với tiêu thụ”, Tcty Than Việt Nam đã đạt sản lượng tiêu thụ đạt 18 triệu tấn và là đơn vị về đích đầu tiên trước 3 năm của kế hoạch 5 năm (2001-2005), trong cuộc “chạy đua” giữa các ngành kinh tế trọng điểm của cả nước. Trong đó có những đóng góp không nhỏ của những xí nghiệp khai thác như Xí nghiệp Than Hồng Thái. Một mùa Xuân mới với những thắng lợi mới của đất Mỏ thân yêu của Tổ quốc.
Cùng góp phần vào cuộc "Bứt phá ngoạn mục" của ngành Than Việt Nam
TCCT
Là một xí nghiệp khai thác than hầm lò, có diện sản xuất nằm trải rộng từ Than Thùng-Vàng Danh đến Tràng Bạch-Mạo Khê (Quảng Ninh), Xí nghiệp Than Hồng Thái là một trong 3 xí nghiệp khai thác than thu