I. GIỚI THIỆU CHUNG.
Châu Phi là châu lục lớn thứ hai trên thế giới về dân số, sau châu Á, và lớn thứ ba trên thế giới về diện tích (khoảng 30.244.050 km²), sau châu Á và châu Mỹ. Với khoảng 900 triệu dân sinh sống ở 54 quốc gia, chiếm 1/7 dân số thế giới, được chia làm 2 khu vực chính: Bắc Phi và Nam Phi. Dân cư châu Phi có thể nhóm theo khu vực mà họ sinh sống ở phía Bắc hay phía Nam của Sa mạc Sahara, các nhóm này được gọi là người Bắc Phi và người Phi hạ Sahara. Người Phi ở Bắc Phi, chủ yếu là Ả Rập-Berber. Người Phoenicia (Semit), người Hy Lạp và người La Mã cổ đại từ châu Âu cũng đã định cư ở Bắc Phi. Người Berber là thiểu số đáng kể ở Maroc và Algérie cũng có mặt ở Tunisia và Libya. Người Tuareg và các dân tộc khác (thường là dân du mục) là những người sinh sống chủ yếu của sa mạc Sahara ở Bắc Phi. Một số nhóm người Ethiopia và Eritrea (tương tự như Amhara và Tigray, gọi chung là người "Habesha") có tổ tiên là người Semit (Sabaea). Người Somali là những người có nguồn gốc từ các cao nguyên ở Ethiopia, nhưng phần lớn các bộ tộc Somali cũng có tổ tiên là người gốc Ả Rập. Sudan và Mauritania được phân chia giữa phần lớn người gốc Ả Rập ở phía bắc và người Phi da đen ở phía nam (mặc dù nhiều người gốc Ả Rập ở Sudan có tổ tiên rõ ràng là người châu Phi, và họ khác rất nhiều so với người gốc Ả Rập ở Irắc hay Algérie). Một số khu vực ở Đông Phi, cụ thể là ở đảo Zanzibar và đảo Lamu của Kenya, có những người dân và thương nhân gốc Ả Rập và Hồi giáo châu Á sinh sống từ thời Trung Cổ.
Từ thế kỷ XVI, người châu Âu như Bồ Đào Nha và Hà Lan bắt đầu thiết lập các điểm thương mại và pháo đài dọc theo bờ biển tây và nam châu Phi. Cuối cùng thì số lượng lớn người Hà Lan, cùng với người Pháp Huguenot và người Đức đã định cư tại khu vực gọi là Cộng hòa Nam Phi ngày nay. Hậu duệ của họ, người Phi da trắng (Afrikaan), là nhóm dân da trắng lớn nhất ở Nam Phi ngày nay. Trong thế kỷ XIX, giai đoạn thứ hai của quá trình thuộc địa hóa đã làm cho số lượng lớn người Pháp và người Anh tới định cư ở châu Phi. Người Pháp sống chủ yếu ở Algérie, còn số lượng nhỏ khác sống ở các khu vực khác thuộc Bắc và Tây Phi. Người Anh định cư ở Nam Phi cũng như ở Rhodesia thuộc địa và ở các vùng cao nguyên của Kenya ngày nay. Một số lượng nhỏ binh lính, thương nhân và viên chức gốc Âu cũng sinh sống ở các trung tâm hành chính như Nairobi và Dakar. Tuy nhiên, ở Nam Phi thì người da trắng thiểu số (10% dân số) vẫn ở lại rất nhiều tại nước này kể cả sau khi sự cai trị của người da trắng chấm dứt năm 1994. Nam Phi cũng có cộng đồng người hỗn hợp về chủng tộc (người da màu).
Sự thực dân hóa của người châu Âu cũng đem tới đây nhiều nhóm người châu Á, cụ thể là những người từ tiểu lục địa Ấn Độ tới các thuộc địa của Anh. Các cộng đồng lớn người Ấn Độ sống ở Nam Phi và các nhóm nhỏ hơn sống ở Kenya và Tanzania cũng như sống ở một vài nước thuộc nam và đông châu Phi.
Ngôn ngữ: Theo phần lớn các ước tính thì châu Phi có trên cả ngàn ngôn ngữ, trong đó có 4 hệ ngôn ngữ chính có gốc bản địa ở châu Phi: Hệ ngôn ngữ Phi-Á là hệ ngôn ngữ của khoảng 240 thứ tiếng và 285 triệu người sử dụng trải khắp Bắc Phi, Đông Phi, Sahel và Tây Nam Á; Hệ ngôn ngữ Nil-Sahara bao gồm hơn 100 thứ tiếng được khoảng 30 triệu người sử dụng. Các tiếng Nil-Sahara chủ yếu sử dụng ở Tchad, Sudan, Ethiopia, Uganda, Kenya và bắc Tanzania; Hệ ngôn ngữ Niger-Congo bao phủ phần lớn châu Phi hạ Sahara và có lẽ là họ ngôn ngữ lớn nhất thế giới khi nói đến như là có nhiều thứ tiếng khác nhau. Một điều đáng chú ý trong số đó là các tiếng Bantu được nói nhiều nhất ở khu vực hạ Sahara; Hệ ngôn ngữ Khoisan có số lượng trên 50 thứ tiếng và được khoảng 120.000 người sử dụni ở miền nam châu Phi. Nhiều thứ tiếng trong họ ngôn ngữ này đang ở trong tình trạng mai một. Người Khoi và San được coi là những cư dân nguyên thủy của vùng này.
Các ngôn ngữ châu Âu cũng có một số ảnh hưởng đáng kể. Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha là các ngôn ngữ chính thức tại một số nước do kết quả của quá trình thực dân hóa. Tại Cộng hòa Nam Phi, nơi có một lượng đáng kể người gốc châu Âu sinh sống, thì tiếng Anh và tiếng Afrikaan là ngôn ngữ bản địa của một bộ phận đáng kể dân chúng.
Châu Phi có các nền văn hóa pha tạp lẫn nhau. Sự khác biệt thông thường rõ nhất là giữa châu Phi hạ Sahara và các nước còn lại ở phía Bắc từ Ai Cập tới Marốc, những nước này thường tự gắn họ với văn hóa Ả Rập. Trong sự so sánh này thì các quốc gia về phía Nam sa mạc Sahara được coi là có nhiều nền văn hóa, cụ thể là các nền văn hóa trong nhóm ngôn ngữ Bantu.
Người châu Phi theo nhiều loại tôn giáo, với Kitô giáo và Hồi giáo là phổ biến nhất. Khoảng 40% dân số châu Phi là người theo Kitô giáo và 40% theo Hồi giáo. Khoảng 20% còn lại chủ yếu theo các tôn giáo châu Phi bản địa. Một số lượng nhỏ người Phi cũng theo các tín ngưỡng của Do Thái giáo, chẳng hạn như các bộ lạc Beta Israel và Lemba.
Châu Phi là khu vực giầu tài nguyên thiên nhiên và là thị trường có sức tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hóa, từ các sản phẩm chế biến, chế tạo đến nông sản, hàng tiêu dùng... Đồng thời, châu lục này là nơi cung cấp nguyên, nhiên liệu, khoáng sản, trong đó có nhiều loại mang tính chiến lược. Yêu cầu về tiêu chuẩn hàng hóa không khắt khe như nhiều khu vực khác trên thế giới. Hầu hết các nước châu Phi đều có nền kinh tế đang phát triển, thu nhập bình quân tính theo đầu người đạt khoảng 400 USD/người/năm.
Nước thành công về kinh tế nhiều nhất là Cộng hòa Nam Phi, đây là quốc gia phát triển về công nghiệp và kinh tế như bất kỳ nước công nghiệp châu Âu hay Bắc Mỹ nào, nước này còn có thị trường chứng khoán rất hoàn thiện. Nam Phi đạt được điều này một phần là nhờ sự giàu có đáng ngạc nhiên về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nước này là nước dẫn đầu thế giới về sản xuất vàng và kim cương.
II. QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – CHÂU PHI:
Theo số liệu thống kê chính thức, đến nay đã có 48 nước châu Phi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong những năm 1990, Việt Nam và các quốc gia châu Phi đã ký 39 hiệp định về hợp tác kinh tế, thương mại, văn hóa và khoa học kỹ thuật, bảo hộ đầu tư, nông nghiệp, y tế, giáo dục. Việt Nam cũng đã ký Hiệp định Thương mại song phương với 15 nước châu Phi, trong đó 13 Hiệp định có điều khoản Tối huệ quốc (MFN). Những năm gần đây, các hoạt động xúc tiến hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước châu Phi liên tục diễn ra. Qua đó, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - châu Phi đã tăng trưởng nhanh, từ 15,5 triệu USD năm 1991 lên đến hơn 1 tỷ USD trong năm 2007, tăng 21% so với năm 2006. Đặc biệt xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi năm 2007 đạt 684 triệu USD, tăng 12% so năm 2006. Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vào châu Phi là dệt may, giầy dép, hạt tiêu, cao su..., những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu thêm các sản phẩm điện - điện tử, cơ khí, đồ nhựa, sản phẩm gỗ, xe máy và linh kiện, phụ tùng xe máy, thuốc lá điếu, hàng rau quả, bột gia vị, bột ngọt, đồ chơi trẻ em, mỳ ăn liền, sữa và sản phẩm sữa, xe đạp... tuy giá trị xuất khẩu chưa cao.
Thời gian qua, doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển thị trường châu Phi chủ yếu từ 2 hướng: thứ nhất, từ Bắc Phi thông qua thị trường Ai Cập, Libi và thứ hai, từ Cộng hoà Nam Phi để thâm nhập các quốc gia phía Nam và Trung Phi. Nam Phi và Ai Cập cũng là 2 thị trường lớn nhất của Việt Nam ở châu Phi. Năm 2007, Ai Cập đã nhập khẩu thủy sản Việt Nam trị giá hơn 20 triệu USD (gấp 5 lần so với năm 2006). Thêm vào đó, các mặt hàng như cà phê, cơm dừa… của Việt Nam cũng được thị trường Ai Cập ưa chuộng. Ngoài ra, xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường mới như Bê-nanh, Ma rốc, Nigiêria… cũng có bước tiến đáng kể. Năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường Bê-nanh đạt 15,4 triệu USD hàng hoá các loại, tăng 152% so với năm 2006. Các mặt hàng xuất khẩu chính gồm dệt may, gạo, thuốc lá và nguyên phụ liệu thuốc lá, sản phẩm chất dẻo. Với thị trường Marốc, năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường này đạt hơn 46 triệu USD hàng hoá, tăng khoảng 110% so với cùng kỳ năm trước. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cà phê, tivi màu, giầy dép, linh kiện máy tính, cao su, xăm lốp xe đạp, xe máy, quần áo, cơm dừa... Đặc biệt, hiện nay, cà phê là sản phẩm đứng đầu trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Marốc, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu. Dự báo, nếu hoạt động xúc tiến thương mại được triển khai tốt, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Marốc có thể đạt khối lượng 13.000 -14.000 tấn/ năm.
Do châu Phi là thị trường có sức mua thấp và khả năng thanh toán hạn chế, nên từ lâu các doanh nghiệp Việt Nam đã khắc phục bằng cách bắt đầu từ những lô hàng nhỏ để thăm dò thị trường, dần tiến tới đa dạng các loại sản phẩm.
Một số mặt hàng của doanh nghiệp Việt Nam thành công tại thị trường châu Phi bằng phương cách này, như: mặt hàng may mặc ở Nam Phi tiến tới mở rộng ra gạo, nhựa, gia vị, hàng điện tử, dây cáp điện; mặt hàng xe máy ở Angola sau đó mở rộng ra Algeria, Ghana để tiêu thụ ở các thành phố và nông thôn châu Phi.
Tuy có những điều kiện thuận lợi, bước phát triển như đã nói ở trên nhưng đến nay trao đổi kim ngạch hai chiều Việt Nam - châu Phi vẫn dừng ở mức khiêm tốn. Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2007, Việt Nam xuất khẩu sang châu Phi lượng hàng hóa trị giá 685 triệu USD, tập trung chủ yếu tại một số thị truờng chính như: Ai Cập, Nam Phi, Ma rốc, Nigiêria… Con số này thấp hơn nhiều so với tiềm năng của thị trường này. Ông Đỗ Quang Liên – Tham tán Thương mại tại Nam Phi cho rằng: điều kiện địa lý xa xôi, nét văn hóa có nhiều điểm khác biệt chính là rào cản lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, phương thức xuất khẩu qua trung gian trong thời kỳ đầu khai phá thị trường châu Phi đã không còn thích hợp trong điều kiện hiện nay.
Do đó, để khơi thông các cơ hội hợp tác kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu, cần nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc, khắc phục những khó khăn, trở ngại. Thứ nhất, về phía Nhà nước, cần tiếp tục tham gia trực tiếp vào việc ký kết các thỏa thuận cấp Chính phủ với các nước có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Bộ Công Thương cũng nên xem xét việc đặt thêm các đại diện thương mại tại châu Phi nhằm chắp nối các cơ hội hợp tác, làm đầu mối thông tin, cũng như đảm bảo cho các hoạt động thương mại được diễn ra suôn sẻ, hiệu quả.
Về phía doanh nghiệp trong nước, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu thị trường châu Phi. Đặc biệt tìm hiểu kỹ phong tục, tập quán văn hoá và sở thích của người dân châu Phi để tổ chức nguồn hàng phù hợp; nghiên cứu để có thể mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty, xây dựng kho ngoại quan tại một số thị trường chính như Nam Phi, Ai Cập, Libi…; đầu tư trực tiếp vào một số lĩnh vực như dệt may, giầy dép, lắp ráp xe máy... ở các thị trường tiềm năng. Mua quyền khai thác rừng, chế biến đồ gỗ xuất khẩu, xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, thực phẩm để xuất khẩu tại chỗ, xây dựng nhà máy sơ chế để nhập khẩu về nước làm nguyên liệu. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và tiếp cận thị trường châu Phi của của doanh nghiệp. Đa dạng hoá mặt hàng đi đôi với xây dựng thương hiệu hàng hoá đồng thời áp dụng nhiều phương thức xuất khẩu vào thị trường này…Hơn nữa, với thị trường tương đối khó khăn và nhiều rủi ro như châu Phi thì cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO sẽ là một biện pháp tương đối hữu hiệu để xử lý những vụ kiện thương mại. Vì vậy, cơ hội cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường châu Phi tương đối lớn.
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Trong thời gian qua, mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam sang châu Phi là gạo, xuất phát từ thực tế nhiều nước châu Phi thường xuyên bị thiếu lương thực và hàng năm có nhu cầu nhập khẩu lương thực rất lớn.
Theo Hiệp hội Phát triển gạo Tây Phi, nhu cầu tiêu thụ gạo tại riêng khu vực Tây và Trung Phi vào khoảng 4 triệu tấn/năm, tương đương 1 tỷ USD, trong đó, gạo phải nhập khẩu khoảng 3 triệu tấn/năm. Còn khu vực Nam Phi không sản xuất gạo, toàn bộ lượng tiêu dùng đều phải nhập khẩu, khối lượng khoảng 500 - 600 ngàn tấn/năm. Các thị trường này thường có nhu cầu gạo với phẩm cấp trung bình, giá rẻ, đó là những tiêu chuẩn mà gạo Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh với gạo Thái Lan, Pakistan.
Mở rộng cơ cấu hàng xuất khẩu
Nhìn vào cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang châu Phi có thể thấy, diện mặt hàng xuất khẩu còn hẹp và đơn điệu, tập trung vào một số mặt hàng như nông sản, giầy dép, dệt may, máy nông nghiệp. Trong khi đó, tại các nước châu Phi, hàng hoá rất thiếu thốn. Thực tế là do Việt Nam chưa khai thác hết các mặt hàng châu Phi có nhu cầu lớn mà Việt Nam có thế mạnh và hoàn toàn có khả năng xuất khẩu sang châu Phi.
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa hình thành một hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ và chi tiết để tạo lập cơ sở cho các hoạt động thương mại với châu Phi. Hệ thống chiến lược, chính sách hỗ trợ phát triển thương mại và các quan hệ hợp tác khác hầu như chưa có hoặc mới chỉ hình thành trong thời gian gần đây.
Đặc biệt, chưa có một chiến lược của Chính phủ về phát triển thương mại và hợp tác với các nước châu Phi bao hàm đầy đủ các chính sách quan trọng như chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, hệ thống các biện pháp hỗ trợ (bộ máy hỗ trợ tại chỗ, tín dụng xuất khẩu, thông tin thị trường, hỗ trợ nghiên cứu, đặt văn phòng đại diện, hỗ trợ chi phí thuê đặt kho ngoại quan...).
Tổ chức xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, một trong những khó khăn lớn nhất trong quan hệ buôn bán với các nước châu Phi là khả năng thanh toán hạn chế, doanh nghiệp châu Phi thường yêu cầu phương thức thanh toán trả chậm.
Trong khi đó, doanh nghiệp của Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khó chấp nhận thanh toán trả chậm. Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á - Nam Á (Bộ Công Thương) khuyến cáo, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu thành công vào khu vực thị trường này trong thời gian tới cần phải tăng cường vai trò đầu mối của các hiệp hội ngành hàng, thông qua một tổ chức chuyên về xúc tiến thương mại tại châu Phi hoặc sử dụng các dịch vụ tư vấn của các Phòng thương mại và công nghiệp của các nước bản xứ.
Doanh nghiệp cũng nên mở chi nhánh hoặc thành lập doanh nghiệp ở châu Phi để trực tiếp kinh doanh, thuê kho ngoại quan, có thể kết hợp nhập khẩu để tận dụng tối đa cước phí vận tải và phí thuê kho ngoại quan. Đối với nhiều nước châu Phi, đây là phương án kinh doanh rất có hiệu quả trong điều kiện thanh toán khó khăn. Doanh nghiệp sẽ trực tiếp nhận hàng, trực tiếp bán hàng và thu tiền.
Đồng thời, doanh nghiệp nên tiếp cận với các tập đoàn lớn hoặc tiếp cận các nhà bán buôn, các tập đoàn siêu thị bởi nếu đưa một sản phẩm đơn lẻ vào thị trường châu Phi rất khó, cần phải đa dạng hoá mặt hàng để cung cấp cho các nhà bán buôn châu Phi do họ nắm trong tay hệ thống phân phối tới các địa phương. Doanh nghiệp muốn thâm nhập thị trường châu Phi lâu dài cần tự tìm cho mình một người đại diện giỏi là người bản xứ để thuận lợi về ngôn ngữ, giải quyết các thủ tục địa phương.
Từ trước đến nay, xuất khẩu qua trung gian vẫn là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường châu Phi. Hình thức này chỉ thích hợp với thời kỳ khai phá thị trường khi quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhỏ và các mặt hàng xuất khẩu còn phân tán, dễ tạo ra thế bị động đối với các nhà xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường.
Để có thể xuất khẩu trực tiếp sang các nước châu Phi, nhất là những nước nghèo, các doanh nghiệp cần phải nỗ lực và đầu tư ban đầu rất lớn trên cả 2 phương diện vật lực và nhân lực. Hình thức này đã được các doanh nghiệp sử dụng tại các quốc gia mà Việt Nam đã có thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao và một số nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển và khả năng tài chính tương đối mạnh.
Nếu doanh nghiệp lựa chọn hình thức mở showroom giới thiệu sản phẩm thì doanh nghiệp có thể liên kết với một đối tác châu Phi, nhưng cũng có thể tự thành lập nếu luật pháp sở tại cho phép. Tuy nhiên, Bộ Thương mại kiến nghị doanh nghiệp nên chọn Nam Phi làm địa bàn thử nghiệm, vì đây là khu vực có trình độ kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng tốt, pháp luật ổn định.
Trong thời gian tới, đầu tư cũng là một hình thức kinh doanh mà các doanh nghiệp cần áp dụng để thâm nhập vào thị trường châu Phi, đồng thời chuẩn bị trước cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam. Đầu tư vào châu Phi sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ được hưởng nhiều ưu đãi thương mại mà Mỹ và EU dành cho các nước châu Phi (33 nước châu Phi được hưởng ưu đãi thuế quan GSP vào EU). Các doanh nghiệp nên nghiên cứu khả năng đầu tư trong một số ngành thuỷ sản, chế biến gỗ, công nghiệp nhựa, dược phẩm, chế biến nô
III. MỘT SỐ THỊ TRƯỜNG CHÍNH.
III.I. THỊ TRƯỜNG AN-GIÊ-RI.
Giới thiệu chung
- Vị trí địa lý: An-giê-ri nằm ở Bắc Phi, trên bờ Nam Địa Trung Hải, có 1.200 km bờ biển và giáp Tuy-ni-di, Li bi, Niger, Mali, Mauritanie, Tây Sahara và Ma-rốc.
- Diện tích: 2.381.741 km2 (87% diện tích là sa mạc).
- Dân số: 33.769.000 người (5/2008). Mật độ dân số: 13 người/km2, 52% dân số sống ở các đô thị.
- Ngôn ngữ chính thức: tiếng A-rập, ngoài ra có tiếng Pháp được sử dụng rộng rãi. Ngày 5/7/1998, An-giê-ri bắt đầu thực hiện luật phổ cập tiếng A-rập.
- Tôn giáo: Đạo Hồi là quốc đạo, chiếm 90% dân số, ngoài ra có đạo Thiên chúa.
- Thủ đô: Alger (3 triệu dân), đồng thời là cảng biển lớn nhất của An-giê-ri.
- Khí hậu: Phía Bắc Algérie chịu ảnh hưởng của khí hậu Địa Trung hải, mùa đông lạnh và mưa, mùa hè nóng và khô; phía nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới và sa mạc, chênh lệch nhiệt độ càng đi về phía Nam càng lớn (ban ngày 360C, ban đêm 50C). Tại thủ đô Alger nhiệt độ trung bình tháng Giêng là 12,20C, tháng 7 là 24,50C.
- Đơn vị tiền tệ: Dinar An-giê-ri (1USD = 69,9 dinar )
Kinh tế: An-giê-ri được xếp vào một trong số các nước giầu có nhất châu Phi. Năm 2007: GDP đạt 125,9 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 4,6%, An-giê-ri được đánh giá là nền kinh tế mạnh thứ 2 tại châu lục này, chỉ xếp sau Nam Phi.
- Tài nguyên: An-giê-ri có thế mạnh về dầu lửa (trữ lượng khoảng 11,35 tỷ thùng, sản lượng 1,45 triệu thùng/ngày-năm 2007), khí gas (trữ lượng 5000 tỷ m3, nước xuất khí gas thứ 3 thế giới), ngoài ra có sắt, phốt phát, than, đồng, chì, kẽm.
- Cơ cấu kinh tế: Năm 2007: Nông nghiệp 8,1%; Công nghiệp 61%; Dịch vụ 30,9% - Mặt hàng xuất khẩu chính: Dầu mỏ, khí đốt và các sản phẩm từ dầu. Mặt hàng nhập khẩu chính: Đồ dùng thiết yếu, hàng tiêu dùng, lương thực-thực phẩm.
Quan hệ hợp tác Việt Nam – An-giê-ri:
Việt Nam - An-giê-ri thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 28/10/1962. Tháng 11/1962, Việt Nam mở Sứ quán thường trú tại Alger và tháng 4/1968, An-giê-ri mở Sứ quán thường trú tại Hà nội.
- Trao đổi đoàn: các đoàn cấp cao Việt Nam thăm An-giê-ri: Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1974), Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1976), Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công (1989), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (1999), Thủ tướng Phan Văn Khải (2004), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (2005). Các đoàn cấp cao An-giê-ri thăm Việt Nam gồm các Tổng thống Boumédienne (1974), Zeroual (1996), Abdelaziz Bouteflika (2000) và Chủ tịch Hạ viện Amar Saadani (2005).
Hai nước đã ký nhiều Hiệp định và Thoả thuận hợp tác, trong đó có: Hiệp định hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật (1974), Hiệp định thương mại (1994), Hiệp định miễn thị thực với hộ chiếu ngoại giao và công vụ (1994), Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực văn hóa thông tin (1996), Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1996), Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (1999), Thoả thuận về hợp tác nông nghiệp (2004).
Quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước hiện có xu hướng đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang An-giê-ri trong những năm gần đây cũng tăng khá mạnh. Nếu như năm 2004 chỉ mới đạt 26 triệu USD, năm 2005: 28 triệu USD thì năm 2006 đã đạt 45 triệu, năm 2007 đạt 55 triệu và năm 2008 dự kiến sẽ đạt khoảng 100 triệu USD, tăng 87% so với năm 2007. Theo số liệu thống kê của Hải quan An-giê-ri, trong 8 tháng đầu năm 2008, 7 nhóm hàng nhập khẩu của An-giê-ri gồm: lương thực thực phẩm, nhiên liệu, sản phẩm thô, bán thàng phẩm, thiết bị công nghiệp, thiết bị nông nghiệp, hàng tiêu dùng, trong đó, lương thực thực phẩm tăng 76%, thiết bị công nghiệp tăng 51%, sản phẩm thô tăng 11%, hàng tiêu dùng tăng 16%. Cũng trong 8 tháng đầu 2008, các sản phẩm nhập khẩu của An-giê-ri đều tăng rất mạnh : cà phê + 42% ; ngũ cốc + 46% ; tôm cá đông lạnh + 12% ; gạo + 86% ; đồ gỗ + 29% ; máy móc thiết bị + 49% ; hạt tiêu + 145% ; may mặc + 18% ; dày dép + 26%... Các sản phẩm của Việt Nam có vị trí tương đối vững chắc trên thị trường An-giê-ri là cà phê, năm 2008 dự kiến đạt 82 triệu USD; gạo dự kiến đạt 11,5 triệu USD; hạt tiêu 2,2 triệu USD, cá đông lạnh 2,7 triệu USD, máy móc, thiết bị 1,3 triệu USD. Hầu hết các sản phẩm đều có tốc độ tăng trưởng rất cao so với năm 2007, từ + 60% đến + 660%. Các mặt hàng Việt Nam được ưa chuộng tại thị trường này gồm giầy thể thao, quần áo bảo hộ lao động và hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, tổng trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ đạt một phần rất nhỏ bé trong tổng trị giá nhập khẩu của An-giê-ri (100 triệu/38.000 triệu USD = 0,26%). Các sản phẩm cụ thể cũng chiếm tỷ trọng khá thấp, ví dụ : cà phê 28% ; gạo 15% ; hạt tiêu 76% ; cá đông lạnh 43% ; máy móc thiết bị 0,03% ; may mặc, dày dép, đồ gỗ, vi tính… chưa đáng kể. Phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam sang An-giê-ri là bán thành phẩm và hơn một nửa khối lượng phải qua khâu trung gian.
Những thông tin cần biết khi kinh doanh với An-giê-ri:
1. Về đăng ký xuất nhập khẩu:
Về nhập khẩu, Sắc lệnh số 05-05 ngày 25/7/2005 của Tổng thống An-giê-ri quy định: đối với các nguyên liệu, hàng hóa nhập về để bán nguyên trạng, không qua chế biến, chỉ cho phép các doanh nghiệp có vốn đăng ký từ 20.000 đina ( tương đương với 270.000 USD) trở lên mới được nhập khẩu; đối với các hàng hóa nguyên liệu sau khi nhập khẩu còn phải qua khâu chế biến trong nước thì tất cả các tổ chức, doanh nghiệp có đăng ký nhập khẩu và đăng ký ngành hàng đều được phép nhập khẩu, không giới hạn mức vốn đăng ký ( nhưng về số lượng chỉ giới hạn trong nhu cầu sản xuất hoặc sử dụng của tổ chức doanh nghiệp đó)
Chế độ giấy phép nhập khẩu hầu hết đã được bãi bỏ, trừ một số sản phẩm ( như dược- mỹ phẩm, sách báo, hóa chất, đồ chơi…). Một số biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu đối với một số sản phẩm cũng được áp dụng như nhiều nước khác vì lý do sức khỏe, an ninh, văn hóa, quyền lợi của người tiêu dùng.
2. Thuế nhập khẩu:
An-giê-ri là một trong những nước có biểu thuế nhập khẩu khá cao, tuy nhiên biểu thuế này đang có xu thế giảm dần, nhất là khi Hiệp định liên kết với Cộng đồng Châu Âu có hiệu lực và An-giê-ri chuẩn bị gia nhập WTO.
Từ năm 2001 đến nay, thuế nhập khẩu của An-giê-ri được chi làm 3 nhóm: Nhóm nguyên liệu 5%, nhóm bán thành phẩm 15% và nhóm thành phẩm 30%. Ngoài ra, còn thuế phụ thu tạm thời cho khoảng 400 sản phẩm ( để bảo hộ sản xuất trong nước) từ 60% năm 2001 rồi giảm dần 12% mỗi năm và đã xóa hoàn toàn vào năm 2006.
Thuế hải quan An-giê-ri được áp dụng trên cơ sở tối huệ quốc. Từ những năm 90, An-giê-ri đã ký một số Hiệp định ưu đãi thuế quan với một số nước láng giềng
( Tunisia và Morocco giảm 40% thuế). Nhưng vì nhiều lý do, các hiệp định đó đến nay vẫn chưa được thực hiện.
3- Một số quy chế đặc biệt về nhập khẩu:
- Luật Hải quan số 98-10 ngày 22/08/1998 đã có những quy chế cụ thể về chuyển tải, lưu kho hải quan, tạm nhập tái xuất, nhà máy chế biến hàng tạm nhập tái xuất…Ngoài ra, Luật tài chính năm 2000 đã ban hành biểu thuế ưu đãi đối với một số linh kiện nhập khẩu để lắp ráp trong nước ( SKD, CKD), hoặc đối với các thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư nước ngoài.
- Cũng như các nước khác, An-giê-ri cũng có những quy chế điều chỉnh riêng đối với các sản phẩm liên quan đến sức khỏe cộng đồng, an ninh, đạo đức, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cấm buôn bán các chất ma túy…
- Quy chế giấy phép nhập khẩu cũng đang được áp dụng cho các sản phẩm về sách báo, một số hóa chất độc hại, đồ chơi trẻ em, bát đĩa nhà bếp…
- Các loại thực phẩm, mỹ phẩm, xà phòng tắm…đều phải chịu sự giám sát chặt chẽ về chất lượng, nhãn mác lúc nhập khẩu. Nhãn mác của những sản phẩm này bắt buộc phải có tiếng A- rập in liền vào bao gói, có bảng thành phần cơ cấu sản phẩm, tên và địa chỉ chính xác của người cung ứng và người nhập khẩu.
Quy chế cạnh tranh về giá:
Sắc lệnh số 95-06 năm 1995 quy định khuyến khích cạnh tranh để nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng và đảm bảo sự trong suốt, lành mạnh trong các phương thức kinh doanh. Những hành vi thương mại nhằm mục đích ngăn cản nhà sản xuất hoặc phân phối xâm nhập thị trường, gây hạn chế cho sản xuất, đầu tư, gây cản trở tự do giá cả theo cơ chế thị trường sẽ bị coi là bất hợp pháp. Nghiêm cấm việc lạm dụng khan hiếm trên thị trường để từ chối bán hàng
( nếu không có lý do hợp pháp), ép buộc phải mua kèm, bắt ép mua số lượng tối thiểu.. chống bán phá giá.
Quyền sở hữu trí tuệ:
Sắc lệnh số 93-17 ngày 7/12/1993 của Tổng thống An-giê-ri quy định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sáng chế. Thời hạn tối đa quyền sở hữu bằng sáng chế là 20 năm.
Nhãn mác:
Theo Sắc lệnh 1996 của An-giê-ri về nhãn mác, nhãn mác hàng hóa sản xuất, buôn bán hoặc dịch vụ đều phải đăng ký. Tất cả hàng hóa có nhãn mác giả đều bị cấm lưu hành hoặc tịch thu.
Tuy nhiên các quyền sở hữu về nhãn mác có thể được chuyển nhượng toàn bộ hay từng phần bằng văn bản tại cơ quan quản lý đăng ký nhãn mác.
4- Thành lập công ty, chinh nhánh hoặc văn phòng đại diện tại An-giê-ri .
4.1- Các thông tin chung
Luật thương mại An-giê-ri hiện nay bắt nguồn từ hai sắc lệnh: Một sắc lệnh năm 1975 và một sắc lệnh khác năm 1996. Luật thương mại An-giê-ri cho phép công dân, công ty nước ngoài được thành lập công ty, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại An-giê-ri, chịu sự điều chỉnh của luật An-giê-ri.
Đối tượng có thể được thành lập công ty, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện gồm: những công dân nước ngoài có đủ năng lực pháp lý và quyền dân sự; những công ty nước ngoài đã được thành lập hợp pháp.
Các công ty được thành lập có thể theo hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc dưới hình thức liên doanh với một công dân hoặc công ty An-giê-ri. Tỷ lệ góp vốn do hai bên tự thỏa thuận, không hạn chế tỷ lệ góp vốn của mỗi bên.
Thông tin liên quan đến việc thành lập công ty có thể tham khảo trên trang Web của Bộ Thương mại An-giê-ri: http://www. Mincommerce.gov.dz
4.2- Các thủ tục lập văn phòng đại diện
4.2.1- Giá tiền đặt văn phòng đại diện
- Tiền đặt cọc bảo lãnh: 20.000USD. Số tiền này phải đặt vào một ngân hàng tại An-giê-ri, chịu sự điều chỉnh của luật An-giê-ri. Khoản tiền này sẽ bị “ đóng băng” trong suốt quá trình hoạt động của văn phòng đại diện. Khi hết thời hạn giấy phép hoạt động, khoản tiền này sẽ được giải phóng hoặc chuyển khoản sau khi xuất trình đầy đủ các giấy tờ thanh khoản nợ nần đối với cơ quan thuế vụ và giấy phép “giải phóng” tiền đặt cọc do Bộ Thương mại cấp.
- Nộp phí đăng ký thành lập Văn phòng đại diện 100.000 DA cho cơ quan thuế An-giê-ri ( tương đương khoảng 1.333 USD).
- Mở một tài khoản bằng tiền Đina An-giê-ri chuyển đổi để chi trả mọi hoạt động của văn phòng.
- Văn phòng đại diện phải đóng thuế thu nhập theo Luật An-giê-ri khi có tuyển dụng người làm và duy trì chế độ kế toán theo đúng Luật An-giê-ri.
- Ngân sách cấp cho Văn phòng đại diện phải bằng ngoại tệ, vì Văn phòng đại diện không được phép có khoản thu nào khác tại nước sở tại và không được phép có hoạt động nào sinh lời để thu ở nước sở tại.
4.2.2- Thời hạn hoạt động của Văn phòng đại diện:
Thời hạn là 02 năm và có thể được gia hạn.
4.2.4- Cơ quan quản lý việc thành lập và theo dõi hoạt động Văn phòng đại diện nước ngoài:
Bộ Thương mại An-giê-ri ( Vụ Tổ chức các hoạt động Thương mại)
5- Sử dụng hoặc nhượng quyền kinh doanh
Luật dân sự An-giê-ri cho phép các công ty nước ngoài được ký hợp đồng đại lý với cá nhân hoặc công ty An-giê-ri với mục đích thay mặt mình giao dịch hoặc ký kết hợp đồng mua bán trên đất An-giê-ri.
Ngoài ra, các công ty nước ngoài cũng có quyền ký các hợp đồng chuyển nhượng quyền kinh doanh trên đất An-giê-ri. Tuy nhiên hiện nay, theo sắc lệnh của Tổng thống số 05-05 ngày 25/07/2005 thì chỉ những công ty An-giê-ri có vốn đăng ký từ 20.000 DA trở lên và có đăng ký kinh doanh ngành hàng thì mới được phép thực thi quyền chuyển nhượng thương mại của công ty nước ngoài. Các cá nhân An-giê-ri không được quyền thực hiện hình thái này.
6- Tập quán văn hóa và kinh doanh ở An-giê-ri
6.1- Tính cách người An-giê-ri
Tính cách đặc trưng của đa phần người An-giê-ri là thích “đơn giản, dễ làm”. Do đó, khi làm việc, họ thường muốn vào đề ngay, làm việc nhanh gọn, thích cách trình bày hoặc những phương án dễ hiểu, dễ làm. Đối tác đến làm việc với An-giê-ri, muốn có hiệu quả, phải chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng mọi thứ.
6.2- Tập quán:
Với hơn 90% dân số theo đạo Hồi, hầu hết các khu phố, các xã của An-giê-ri đều có nhà thờ đạo Hồi. Mỗi ngày từ khoảng 3h sáng cho đến 10h đêm, các nhà thờ 7 lần phát loa cầu kinh. Một bộ phận dân chúng, đến giờ đó thực hiện cầu kinh. Có thể cầu kinh ở nhà, đến nhà thờ hoặc cả ở nơi làm việc, ngoài trời. Chiều thứ 6 hàng tuần, nhà thờ và dân chúng cầu kinh từ khoảng 13h đến 15h.
Phần lớn phụ nữ ra đường đều trùm khăn, trừ một số ít thanh niên ở thành phố, đa số phụ nữ An-giê-ri sau khi lấy chồng, ở nhà lo việc nội trợ, nuôi con nên các việc bên ngoài như đi làm, buôn bán, chợ búa… phần lớn đều do đàn ông đảm nhiệm. Khi có việc cần có mặt cả nam và nữ ( như hội họp, đám cưới, xếp hàng khám bệnh…) thì đàn ông ngồi riêng, phụ nữ ngồi riêng.
Đạo Hồi không uống rượu, bia, không ăn thịt lợn. Do đó khi tiếp khách đến làm việc, họ thường chỉ tiếp nước chè, cà phê, hoặc nước khoáng. Các công ty, quan chức An-giê-ri cũng hạn chế trong việc mời khách ăn uống. Tuy nhiên, để đáp lễ, xã giao hoặc xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài, họ cũng tổ chức ăn uống hoặc chiêu đãi tại các nhà hàng hoặc khách sạn, nhưng không nhiều.
Người An-giê-ri rất vui tính, hóm hỉnh. Họ luôn vui vẻ chào hỏi mọi người đi đường, kể cả khi đang lái xe chạy trên đường. Trong quá trình làm việc hay giao tiếp, họ luôn dí dỏm, tạo không khí cởi mở, thân thiện, rất nhiệt tình giúp đỡ người đi đường khi gặp khó khăn.
Khi gặp nhau, đối với người chưa quen thân, họ bắt tay. Nhưng khi đã quen thân, người đồng giới thường hôn hai lần hoặc bốn lần lên má. Nam và nữ gặp nhau chỉ bắt tay.
6.3- Hẹn gặp.
Trừ khi đã quen thân, đa phần các cuộc hẹn với đối tác An-giê-ri đều phải làm văn bản đề nghị và chờ họ xác nhận.
Về giờ giấc các cuộc hẹn, nhìn chung các đối tác An-giê-ri cũng tuân thủ đúng giờ. Tuy nhiên tình hình không kém phổ biến là họ hay đến muộn hoặc quên. Do đó, việc chờ đợi trong các cuộc hẹn tại An-giê-ri là rất bình thường. Bù lại, nếu ta có việc đột xuất, bắt buộc phải đến muộn hoặc hoãn lại, họ cũng vui vẻ chấp nhận.
6.4- Tặng quà.
Người An-giê-ri rất thích được tặng quà lưu niệm, dù ở văn phòng làm việc hay khi gặp riêng. Điều này gây được thiện cảm vui vẻ trong quá trình tiếp xúc, làm việc với họ. Không nhất thiết phải tặng quà đắt tiền hoặc quá to.
6.5- Đôn đốc công việc.
Do đặc tính “ từ từ” như đã nêu ở trên, khi quan hệ giao dịch, giải quyết công việc với người An-giê-ri, ta phải hết sức kiên trì, bám sát đối tác và không ngần ngại nhắc nhở họ. ( Ở nơi khác việc nhắc nhở có thể gây bực mình, nhưng ở An-giê-ri thì không).
7- Tiếp cận thị trường An-giê-ri
Có nhiều con đường để có thể tiếp cận với thị trường, khách hàng An-giê-ri, sau đây xin giới thiệu một số phương thức sau đây:
7.1- Tìm địa chỉ khách hàng An-giê-ri qua một số cơ quan, tổ chức:
- Phòng thương mại và công nghiệp An-giê-ri ( Chambre algerienne de Commerce et d’ Industrie (CACI): 6Bd Amilcar CABRA, place des Martirs, Alger. Tel:0021321966666; Fax: 0021321967070; Website: www.caci.com.dz
- Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại An-giê-ri: 14 rue G les Cretes Hydra, Alger; Tel: 00 21321601189; Fax: 00 21321601181; Email: dz@mot.gov.vn
- Đại sứ quán An-giê-ri tại Hà Nội: 13 phố Phan Chu Trinh, Quận Hoàn Kiếm, hà Nội. Tel: 38253865; Fax: 38260830; Email: baviet56@yahoo.fr
7.2. Tham gia các hội chợ và triển lãm tại An-giê-ri.
Như đa phần các nước khác trên thế giới, tại An-giê-ri cũng có hai thể loại trưng bầy: Hội chợ là hình thức trưng bầy đa ngành hàng, còn triển lãm là hình thức trưng bầy chuyên ngành, chủ yếu phục vụ cho các nhà chuyên môn sản xuất và kinh doanh trong một số lĩnh vực nào đó.
7.3. Tổ chức các đoàn khảo sát trực tiếp thị trường An-giê-ri.
Trên cơ sở chiến lược phát triển thị trường của mình, các doanh nghiệp Việt Nam có thể cử cán bộ sang nghiên cứu, khảo sát trực tiếp, sâu hơn tại An-giê-ri. Trên thực tế, các đoàn khảo sát gần đây của Việt Nam sang An- giê- ri đã thu được những kết quả tốt không những về kiến thức thị trường, ngành hàng, mà còn tìm được những đối tác liên doanh hoặc xuất nhập khẩu lâu dài.
Để chuẩn bị chuyến đi có hiệu quả, ngoài việc chuẩn bị tốt các nội dung nghiệp vụ ( như các phương tiện chào bán, quảng bá, các dự án hợp tác….) các doanh nghiệp Việt Nam cần báo trước cho phía An-giê-ri ít nhất 1-2 tháng để họ thu xếp thời gian, đồng thời phải tránh các ngày lễ, tháng nhịn đói của Đạo Hồi, tháng 8 nghỉ hè. Nếu kết hợp được vào dịp các Hội chợ, triển lãm liên quan đến ngành hàng tại địa phương mình đến càng tốt.
Các công ty có thể tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của một số cơ quan sau đây trong công tác này:
- Phòng thương mại và công nghiệp An-giê-ri ( Chambre algerienne de Commerce et d’ Industrie (CACI): 6Bd Amilcar CABRA, place des Martirs, Alger. Tel:0021321966666; Fax: 0021321967070; Website: www.caci.com.dz
- Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại An-giê-ri: 14 rue G les Cretes Hydra, Alger; Tel: 00 21321601189; Fax: 00 21321601181; Email: dz@mot.gov.vn
- Đại sứ quán An-giê-ri tại Hà Nội: 13 phố Phan Chu Trinh, Quận Hoàn Kiếm, hà Nội. Tel: 38253865; Fax: 38260830; Email: baviet56@yahoo.fr
7.4- Giao dịch từ xa
Trong điều kiện chưa thể sang An-giê-ri giao dịch trực tiếp, các doanh nghiệp có thể giao dịch từ Việt Nam sang An-giê-ri qua điện thoại, fax, email. Cho mạng điện thoại để bàn còn hạn chế, các doanh nghiệp An-giê-ri vẫn đấu chung fax với điện thoại, khi chuyển fax các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý: Nếu có người nhấc máy của đối tác An-giê-ri thì đề nghị cho tín hiệu fax. Ngoài những nội dung, hình ảnh… chuyển qua fax hoặc email, các doanh nghiệp “ nếu có thể được” nên gửi mẫu hàng cho khách và đồng thời phải kiên trì, đôn đốc khách trả lời, nếu không họ sẽ quên
III.2.Thị trường Nam Phi
Giới thiệu chung
Vị trí địa lý: Cộng hòa Nam Phi nằm ở cực nam Châu Phi, giáp Namibia, Zimbabwe, Bostwana, Mozambique, Lesotho và Swaziland. Phía đông và nam là Ấn Độ Dương, phía tây là Đại Tây Dương.
Diện tích: 1.219.912 km2, bao gồm Quần đảo Prince Edward, lớn hơn diện tích của Hà Lan, Bỉ, Pháp, Italia và Đức cộng lại.
Dân số : Khoảng 45 triệu người. Trong đó, dân tộc da đen chiếm 75,2%, da trắng 13,6%, da màu 8,6%, Ấn Độ 2,6%.
Tôn giáo: Thiên chúa giáo 68% (phần lớn là người da trắng và da màu chiếm 60%; da đen và người Ấn Độ chiếm 40%), Đạo hồi: 2%, Đạo Hindu 1,5% (60% là người Ấn Độ), gốc khác 28,5%.
Ngôn ngữ: Gồm 11 ngôn ngữ chính thống: Afrikaans, English, Ndebele, Pedi, Sotho, Swazi, Tsonga, Tswana, Venda, Xhosa, Zulu. Tiếng Anh được dùng chủ yếu.
Thủ đô: Pretoria.
Điều kiện tự nhiên: Nam phi được đánh giá là một trong những nước có nền sinh học đa dạng nhất trên thế giới với nhiều loại động thực vật hoang dã, quí hiếm và phong phú. Ngoài ra, Nam Phi còn sở hữu 1/6 sinh vật biển trên thế giới và là một “ vương quốc thực vật” giầu có nhất trên thế giới, là điểm đến quan trọng để du lịch và ngắm các loài chim. Nam Phi còn nổi tiếng về ngũ đại bao gồm sư tử, voi, tê giác, báo và trâu rừng (trên mặt đất); cá voi, cá mập, cá heo, cá mác-lin, và cá ngừ (dưới biển).
Địa hình của Nam Phi bao gồm vùng cao nguyên đá cổ được chia cắt với vùng đồng bằng hẹp ven biển bởi dãy núi Great Escarpment. Vùng cao nguyên chiếm khoảng 2/3 diện tích đất nước. Hơn 60% diện tích đất của Nam Phi ở tình trạng khô cằn hoặc nửa khô cằn.
Tài nguyên: Các mỏ khoáng sản của Nam Phi có trữ lượng rất lớn và hiếm có trên thế giới như mangan (chiếm 80% trữ lượng toàn thế giới), crôm (68%), vanadi (45%), vàng (35%), alumino–silicat (37%), titan, quặng sắt, đồng, ngọc, kim cương, đá quý, than, thiếc, urani, ni kel, phốt phát, muối, khí gas tự nhiên…
Kinh tế: Nam Phi xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô dựa trên ba mục tiêu chính: Phát triển kinh tế; Tạo công ăn việc làm; San lấp khoảng cách bất bình đẳng giữa người da đen và người da trắng do chế độ phân biệt chủng tộc để lại.
Chính sách nêu trên có tên gọi bằng tiếng Anh là GEAR (Growth. Phát triển. Employment: tạo công ăn việc làm And: và Resdistribution: phân phối lại). Nam Phi là một trong những nước có chính sách vĩ mô được Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá cao và chưa bao giờ có khủng hoảng về nợ hoặc tài chính. Ngày nay, lĩnh vực sản xuất và dịch vụ tài chính đã trở thành hai lĩnh vực kinh tế lớn nhất của đất nước, đóng góp cho GDP lớn gấp 2 lần so với lĩnh vực khai khoáng và nông nghiệp cộng lại. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên khoáng sản giàu có của đất nước này vẫn giữ một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế về tạo công ăn việc làm, xuất khẩu và thu ngoại tệ. Mặc dù nền kinh tế Nam Phi khá nhỏ (chiếm 0,5% GDP của toàn thế giới), nhưng vẫn là nền kinh tế vượt trội nhất của Châu Phi, chiếm1/4 GDP của cả châu lục. Nền công nghiệp và tài chính hiện đại của Nam Phi được hỗ trợ bởi hệ thống viễn thông, đường sá, cầu cảng rất phát triển. Tỉnh Gauteng là tỉnh đầu tầu của nền kinh tế Nam Phi, đóng góp khoảng 370 % GDP toàn quốc.
Cơ cấu kinh tế: Nam Phi có GDP lớn nhất Châu Phi, trong đó sản xuất chiếm 23,9% của toàn châu lục, tài chính và kinh doanh dịch vụ: 19%, thương mại: 16,1%, khai khoáng: 7,8%, vận tải và truyền thông: 7,8%, nông - lâm nghiệp và nghề cá 4,5%, điện khí nước: 3,9% và các ngành khác: 14,1%
Sức mạnh của nền kinh tế Nam Phi còn được thể hiện ở hạ tầng cơ sở hiện đại và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ như vàng, kim cương, than đá và bạch kim... Hầu hết thị trường kim cương thế giới được kiểm soát từ đây. Bên cạnh đó, Nam Phi còn có nền công nghiệp cơ khí đang phát triển mạnh và ngành du lịch có tiềm năng lớn
Bốn trung tâm kinh tế của Nam Phi bao gồm: tỉnh Gauteng (Johannesburg), tỉnh KwaZulu – Natal (Durban), tỉnh miền Tây (Cape Town) và tỉnh miền Đông (Port Elizabeth/ Uitenhage). Tuy nhiên, trung tâm tài chính và công nghiệp của Nam Phi tập trung chủ yếu tại tỉnh Gauteng. Tỉnh này đóng góp 37% cho tổng GDP của cả nước.
Nhờ ưu thế về kỹ thuật, công nghệ cùng với chính sách tự do hóa thương mại, Nam Phi trở thành nước lớn nhất đầu tư vào Châu Phi. Các tập đoàn siêu quốc gia của Nam Phi như Sasol (hóa chất), Sapi (giấy), MTN (viễn thông) và Angogold (khai thác vàng) đều có dự án đầu tư tại các nước thuộc Châu Phi.
Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư Việt Nam – CH Nam Phi
Việt Nam và Nam Phi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 22/12/1993. Kể từ đó, quan hệ giữa hai nước tiến triển tốt đẹp. Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo nhằm thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Năm 2000, Việt Nam mở Đại sứ quán tại Nam Phi và Nam Phi cũng mở Đại sứ quán tại Hà Nội.
Tháng 10/1999, Cơ quan Thương vụ của Việt Nam tại Nam Phi đã được thành lập nhằm thúc đẩy hơn nữa trao đổi thương mại song phương. Hai nước đã ký Hiệp định Thương mại tháng 4/2000, thỏa thuận dành cho nhau quy chế tối huệ quốc (MFN) trong buôn bán hai chiều.
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp hai nước đã tích cực tiến hành thăm dò khảo sát lẫn nhau để tìm cơ hội hợp tác kinh doanh. Các hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức ở Nam Phi, trong đó lớn nhất là Hội chợ quốc tế Saitex, bước đầu đã thu hút được các doanh nghiệp Việt Nam tham dự. Hiện Nam Phi là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam ở Châu Phi. Buôn bán hai chiều tăng trưởng đáng kể trong thập kỷ 90. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi đạt 150 triệu USD trong tổng số 850 triệu USD xuất khẩu sang toàn châu Phi, và dự kiến đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2010.
Mặt hàng buôn bán giữa Việt Nam và Nam Phi tương đối phong phú về chủng loại:
Về xuất khẩu: các mặt hàng quan trọng nhất là gạo, giầy dép, than, sản phẩm dựa, hàng dệt may… Trong đó, gạo là mặt hàng thường xuyên chiếm tỉ trọng cao nhất, khoảng 50-60% giá trị xuất khẩu. Cần lưu ý là gạo xuất khẩu vào Nam Phi phần lớn để tái xuất sang các nước châu Phi khác và một số nước Tây Phi. Những năm gần đây, Việt Nam cũng bắt đầu xuất khẩu sang Nam Phi các sản phẩm điện – điện tử, dụng cụ cơ khí, đồ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ.v.v.
Về nhập khẩu: Việt Nam nhập từ Nam Phi các loại hóa chất, sắt thép, máy móc thiết bị, bông sợi, xơ nhân tạo, hạt nhựa… trong đó, quan trọng nhất là nhập khẩu hóa chất và sắt thép. Riêng năm 1997, Việt Nam nhập từ Nam Phi dây chuyền sản xuất đường trị giá gần 9,5 triệu USD làm cho kim ngạch nhập khẩu trong năm từ Nam Phi tăng đột biến.
Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi còn gặp một số vấn đề cần giải quyết như sau:
- Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô nên rất khó tạo nên đột biến về kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam xuất khẩu cà phê tương đối ổn định vào thị trường Nam Phi, nhưng vẫn chiếm thị phần khiêm tốn trong tổng số kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này. Lý do tỷ trọng nhập khẩu cà phê phần lớn của Nam Phi là cà phê thành phẩm.
- Nam Phi là thị trường còn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp còn hiểu biết rất hạn chế đối với thị trường này. Hơn nữa sự xa xôi, cách trở về mặt địa lý, tạo tâm lý ngại ngùng đối với việc tổ chức các chuyến đi khảo sát thị trường.
- Cơ cấu xuất khẩu hàng Việt Nam chưa phù hợp với cơ cấu nhập khẩu của Nam Phi
- Nam Phi nhập khẩu chủ yếu dạng hàng hóa thay vì dạng nguyên
liệu: Các mặt hàng chủ yếu bao gồm máy móc ( 17,53%- tỷ lệ cao nhất), nhiên liệu (11,6%), đồ điện, điện tử (9,19%), ô tô và phụ tùng (7,27%)...
- Các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu hàng nhập khẩu Nam Phi. Ví dụ, Nam Phi nhập khẩu giầy dép là 0,79%, may mặc 0,56%, nông sản 1,04%, thủ công mỹ nghệ 0,62%, đồ gỗ 0,61%... từ Việt Nam trên tổng phần trăm kim ngạch nhập khẩu.
- Đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam là Trung Quốc, Thái Lan và
Ấn Độ, Trung Quốc và Thái Lan có cơ cấu xuất khẩu tương đối phù hợp với cơ cấu nhập khẩu của Nam Phi. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu giống Việt Nam như hàng may mặc và giầy dép, Trung Quốc xuất khẩu chủ yếu hàng hoá tiêu dùng. Thái Lan xuất khẩu hơn 300 triệu USD gồm mặt hàng gạo và linh kiện phụ tùng xe máy. Ngoài ra phải kể đến lực lượng Hoa kiều và Ấn Độ sinh sống khá đông lại Nam Phi. Họ là đầu mối quan trọng trong việc thúc đẩy hàng xuất khẩu vào thị trường Nam Phi. Họ xây dựng nhà máy sản xuất hàng may mặc và giầy dép... tại Nam Phi, tạo nên ưu thế lớn đối với hàng nhập khẩu như hàng Việt Nam do không phải chịu thuế nhập khẩu và cước vận tải... Hiện nay, đa số hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nam Phi vẫn thông qua các nước thứ ba hoặc chi phối bởi các công ty đa quốc gia.
- Việt Nam chưa khai thác được một số mặt hàng tiềm năng bao gồm:
Đồ nhựa, cao su và sản phẩm cao su, thủ công mỹ nghệ sơn mài, đồ gốm, thuốc y tế (thuốc sốt rét và các loại kháng sinh...), sợi tổng hợp, hàng thực phẩm (đồ hộp, mỹ ăn liền...), đồ gỗ (bàn ghế ngoài trời) v.v…
- Quan hệ trên các lĩnh vực dịch vụ và đầu tư giữa hai nước còn ở mức thấp so với tiềm năng của hai bên. Việt Nam đã lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng của Nam Phi.
Các thủ tục nhập khẩu vào thị trường Nam Phi
Thông tin về thuế xuất nhập khẩu của Nam Phi
Biểu thuế nhập khẩu bao gồm thuế hải quan, thuế nhập khẩu và các loạI thuế khác đánh vào hàng hóa nhập khẩu có thể thu thập ở các địa chỉ sau:
Cơ quan Ngoại thương Nam Phi
(The South Africa Trade Organization - SAFTO)
Địa chỉ: P.O. Box 7827706, Sandton 2146, South Africa
Tel: (011) 8833737
Fax: (011) 883-6569
hoặc Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội
Địa chỉ: Tầng 3 Tòa nhà Trung tâm, 31 Hai Bà Trưng,Hà Nội.
Hòm thư: 102 Hà Nội
Tel: 04- 9362000/1/2/3
Fax : 04-9361991
Email: hanoi@foreign.gov.za; admin@saembassy-hanoi.com
Do Biểu thuế XNK của Nam Phi đã được lập theo Hệ thống mã HS (Hamloniscd System) là biểu mã thương mại quốc tế, nên các cơ quan trên chỉ có thể cung cấp biểu thuế cho bạn, nếu bạn cho biết hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu của bạn có mã số chính xác theo hệ thống HS này. Để có được biểu mã số HS này, bạn có thể liên hệ với Tùy viên Thương mại , Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội tueo địa chỉ trên hoặc liên hệ Thương vụ Việt Nam tại Pretoria theo địa chỉ e mail: za@mot.gov.vn hoặc vnto@worldonline.co.za
Thuế nhập khẩu: Thuế nhập khẩu của Nam Phi ở mức chung là 0 đến 45% với một số trường hợp ngoại lệ. Nam Phi đã chiểu theo hệ thống mã thuế HS, và thuế hải quan cũng như thuế nhập khẩu được tính trên cơ sơ trị giá hải quan (F.O.B) đối với từng mặt hàng cụ thể. Mức áp thuế như sau:
- 0% đối với sản phẩm và công cụ, thiết bị nông nghiệp, hàng hóa là tư liệu sản xuất (capitai goods) và hàng hóa trung gian (intemlediate goods), hàng hóa là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất chế biến và lương thực thiết yếu.
- 15% đối với các loại hàng hóa như máy bay, ô tô các loại, các thiết bị đào, xới đất, phần mềm máy tính, máy móc, thiết bị khác .v v .
- 40% đối với các sản phẩm tiêu thụ cao cấp, xa xỉ khác như: ti vi, máy ghi vi deo, máy quay, xem vi deo, đồ cổ, đồ trang sức bằng vàng bạc, đá quý v.v...
Giấy phép nhập khẩu: Một số hàng hoá muốn vào Nam Phi phải có giấy phép nhập khẩu, ví dụ như thiết bị đã qua sử dụng, hàng hóa tiêu dùng (thực phẩm, quần áo, hàng dệt, giầy dép, sách báo. . .), các sản phẩm gỗ, giấy các loại, nhiên liệu cho xe ô tô và hàng không các sản phẩm hóa đầu, các sản phẩm công nghiệp khác và các loại nguyên vật liệu nhập khẩu như là các thiết bị vật tư để sản xuất xe ô tô
Giấy chứng nhận xuất xứ khi xuất khẩu sang Nam Phi: Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) hay gọi là DIO (Declaration of Origin) ở Nam Phi được lập theo mẫu Da-59 (Form Da-59), xác nhận nước xuất xứ của hàng hóa là bắt buộc phải có để có thể vận chuyển một số loại hàng hóa nhập khẩu vào Nam Phi như: các loại hàng phục vụ bàn ăn làm bằng thép không gỉ (stainless steel tableware), các loại đồ dùng nhà bếp, các đồ gia dụng, các loại cốc chén, bình đựng có đường kính không vượt quá 70mm; sắt và thép chưa mạ, bộ phận lọc khí ô tô xe máy, bộ phận lọc xăng, dầu ô tô xe máy, thiết bị thu sóng radio, điện thoại, thiết bị thu phát sóng radio. Hải quan Nam Phi sẽ thông báo cho nhà nhập khẩu biết có cần phải điền vào mẫu DA-59 hay không và nhà nhập khẩu sẽ báo cho nhà xuất khẩu biết. Một khi mẫu này là cần thiết, nhà xuất khẩu hoặc nhà cung cấp hàng phải xuất trình ít nhất một bản gốc kèm theo với bản gốc hóa đơn hàng (original commerecial invoice).
Các giấy tờ. hóa đơn cơ bản cần có để vận chuyển hàng vào Nam Phi bao gồm:
- Bản gốc hóa đơn hàng (Commercial invoice) ghi rõ giá hàng và lô hàng người nhập khẩu phải trả kèm với giá xuất cảnh của hàng hóa và lô hàng tấm F.O.B. và giá C.I.F )
- Vận đơn (Bill of lading)
- Chứng thư bảo hiểm (Insurance documents)
- Phiếu đóng gói (Packing list)
Có thể nhà nhập khẩu còn yêu cầu thêm một số giấy tờ, chứng từ đặc trưng khác, ít nhất là 3 bản sao hóa đơn hàng phải được gửi trước cho ngườI được ủy quyền nhận hàng trước khi hàng đến cảng nhập.
Thông tin về thị trường Nam Phi:
Các thông tin kinh tế, thương mại khác về Nam Phi có thể được cung cấp bởi Cơ quan Ngoại thương Nam Phi (SAFTO) như địa chỉ đã nói ở trên. Đây là cơ quan chuyên trách cung cấp các thông tin kinh tế, thương mại và thị trường, cũng như thông tin các địa chỉ cần liên hệ để bạn tiến hành kinh doanh Ở Nam Phi. Thương vụ Việt Nam tại Nam Phi cũng là một địa chỉ để bạn yêu cầu cung cấp thông tin . . . Ngoài ra, bạn đừng quên Nam Phi đã lập cơ quan đại diện tại Hà Nội - Việt Nam. Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội và Bộ phận Thương vụ cửa Đại sứ quán Nam Phi sẽ giúp được bạn rất nhiều. Ngoài ra, bạn cũng có thể liên hệ với Vụ Châu Phi, Tây Nam Á hoặc Cục Xúc tiến Thương mại – Bộ Công Thương và các tổ chức xúc tiến thương mại khác để yêu cầu giúp đỡ.
Để hỗ trợ việc kinh doanh xuất nhập khẩu với Nam Phi, bạn hãy liên lạc trực tiếp với Đại sứ quán Nam Phi tại Hà Nội, Bộ phận Kinh tế và thương mại (địa chỉ như trên), hoặc cơ quan đại diện của các nước đặt tại Việt Nam là địa chỉ gần nhất để liên lạc và yêu cầu thông tin về đất nước, kinh tế và thương mại của đất nước họ. Hơn nữa, Bộ phận kinh tế, thương mại trong sứ quán các nước, cũng như Thương vụ của Việt Nam ở các nước có nhiệm vụ cung cấp thông tin mà bạn yêu cầu. Bạn cũng có thể liên lạc với Thương vụ Việt Nam tại Nam Phi:
Ông Đỗ Quang Liên, Tham tán Thương mại theo địa chỉ:
135 Brook st, Brooklyn, Pretoria 0181 South Africa
Tel: 27-12-3631179
Fax: 27-12-3620553
Email:za@mot.gov.vn
Ngoài ra, các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước như Cục Xúc tiến thương mại và các Sở thương mại/ Trung tâm XTTM tại các địa phương cũng có thể giúp bạn
III.3. THỊ TRƯỜNG CỘNG HOÀ LIÊN BANG NIGERIA.
Giới thiệu chung
Cộng hòa Liên bang Nigeria nằm ở phía tây Châu Phi, giáp Niger, Benin, Chad, Cameroun, có diện tích: 923.770km2,
- Dân tộc: Ba bộ tộc lớn nhất là Haussa ở miền bắc, Ibo ở miền đông và Yoruba ở miền tây.
- Tôn giáo: Đạo Hồi chiếm 50% dân số, đạo Thiên chúa chiếm 40%, còn lại 10% theo các tín ngưỡng bản địa.
- Ngôn ngữ: Tiếng Anh (chính thức), nhưng tiếng Hausa, Yoruba, Igbo cũng được sử dụng trong Quốc hội
- Tiền tệ: đồng Naira (N)
- Thủ đô: thành phố Abuja.
- Các thành phố lớn : Lagos (trên 10 triệu dân), Ibadan (1,3 triệu dân), Onitsha, Kano…
Quan hệ thương mại Việt Nam- Nigeria
Ngày 25/5/1976, Việt Nam chính thức lập quan hệ ngoại giao với Nigeria. Tháng 6/2004, Chính phủ Việt Nam đã cho phép thành lập cơ quan đại diện thương mại Việt Nam tại Nigeria. Đây là bước tiến mới trong việc tăng cường quan hệ hai nước nói riêng và quan hệ thương mại nói chung.
Tháng 6/2001, đoàn công tác liên ngành gồm đại diện một số bộ, ngành và doanh nghiệp đã thăm và làm việc tại Nigeria. Qua các chuyến thăm, hai bên đã bàn bạc và nhất trí các biện pháp phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Nigeria. Phía Nigeria quan tâm tới khả năng Việt Nam cử chuyên gia sang giúp trong lĩnh vực trồng trọt và mong muốn hai bên trao đổi chuyên gia trong các lĩnh vực điện tử, viễn thông. Việc chính phủ đó cho phép thành lập cơ quan thương vụ tại Nigeria năm 2005, tạo điều kiện thúc đẩy trao đổi thương mại song phương giữa hai nước. Các doanh nghiệp Nigeria đã bắt đầu đến Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thiết lập quan hệ đối tác. Doanh nghiệp Việt Nam cũng bắt đầu quan tâm đến thị trường Nigeria.
Hai nước đã ký Hiệp định thương mại, quy định dành cho nhau quy chế MFN trong buôn bán song phương. Điều này đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hai nước.
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nigeria khá đa dạng, bao gồm: Gạo, sản phẩm cao su, đồ điện - điện tử, giầy dép, sản phẩm nhựa, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, bột gia vị… Đặc biệt riêng về gạo, Nigeria là một thị trường tiêu thụ lớn với mức nhập khẩu hàng năm lên tới 1,5 - 1,7 triệu tấn.
Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Nigeria gồm có: hạt điều thô, hoa quả, bông, khoáng sản…Đặc biệt, hiện nay ngành công nghiệp chế biến hạt điều của Việt Nam tương đối phát triển. Việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu để phục vụ chế biến hạt điều xuất khẩu cũng là một vấn đề cần thiết khi trong nước chưa đáp ứng đủ. Trong số các nguồn cung cấp hạt điều thì Nigeria là thị trường rất quan trọng.
Tuy nhiên, hoạt động buôn bán giữa hai nước vẫn còn nhiều khó khăn. Hiện nay, trao đổi thông tin giữa hai nước còn ít và hạn chế. Đối với các công ty Việt Nam cũng như nhiều công ty trên thế giới, Nigeria thường được biết đến như một thị trường có nhiều hoạt động kinh doanh nhiều rủi ro. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp hai nước chưa thực sự hiểu rõ các chính sách và luật lệ thương mại cũng như nhu cầu thị trường, cách thức và tập quán kinh doanh của nhau. Mặc dù, Việt Nam và Nigeria đã ký Hiệp định thương mạ,i trong đó hai bên thỏa thuận dành cho nhau quy chế MFN, nhưng nhìn chung, thuế suất đánh vào các mặt hàng nhập khẩu của Nigeria vẫn còn khá cao và cơ chế nhập khẩu còn phức tạp. Ngoài ra, khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và Nigeria khá xa nên cước phí vận tải thường chiếm tỷ lệ lớn trong tiền hàng và làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Thêm vào đó, các ngân hàng của Việt Nam chưa thiết lập quan hệ đại lý trực tiếp với các ngân hàng của Nigeria. nên việc thanh toán xuất nhập khẩu cũng gặp nhiều hạn chế. Đây là những yếu tố hạn chế và gây tâm lý ngại giao dịch của các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường này.
Một số điều cần biết khi kinh doanh với Nigeria
1. Các quy định về thương mại
Các quy định về nhập khẩu:
Các biện pháp hạn chế định lượng:
- Cấm nhập khẩu: Theo báo cáo của Tổng Giám đốc Trung tâm Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nigeria (SMEDAN), thì tính đến tháng 9/2004, Nigeria vẫn còn 33 mặt hàng bị cấm nhập khẩu. Nhiều hàng hoá trước đây nằm trong danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu thì nay đã được phép, ví dụ như lúa mỳ và sản phẩm từ lúa mỳ, gạo và sản phẩm từ gạo, rượu sủi tăm, champagne, nước trái cây, trái cây tươi hay khô.
- Giấy phép nhập khẩu: Ở Nigeria, giấy phép nhập khẩu thông thường đã được bãi bỏ từ năm 1986. Việc nhập khẩu những hàng hóa bị hạn chế nhập khẩu cần phải có giấy phép riêng. Ví dụ, Giấy phép nhập khẩu các sản phẩm dầu khí do Bộ Năng lượng toàn quốc cấp; giấy phép nhập khẩu thuốc lá do Hải quan cấp. Để có thể nhập khẩu những hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm nhập khẩu thì nhất thiết phải có được giấy phép của người đứng đầu Bang (Thống đốc Bang).
Trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục cấm nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu thì buộc phải gửi đơn xin giấy phép nhập khẩu 3 tháng trước ngày nhập khẩu dự kiến đi kèm với đơn này cần phải cung cấp: 1 giấy chứng nhận đã thông quan (thuế); tên và địa chỉ của người cung cấp/người xuất khẩu. Tên của người nhập khẩu Nigeria có thể được xác nhận thông qua Chính phủ nước xuất khẩu hoặc bản thân người xuất khẩu.
Số lượng hàng hóa phân phối cho mỗi nhà nhập khẩu hay số lượng hàng hóa được nhập khẩu từ mỗi nước được ghi rõ trong giấy phép nhập khẩu riêng biệt, nhưng không được công bố rộng rãi. Số lượng này được xác định căn cứ vào đơn xin của người nhập khẩu.
Việc nhập khẩu lương thực, thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, chất hóa học, dược phẩm buộc phải tuân theo đúng nguyên tắc và tùy từng trường hợp cũng phải tuân theo những quy định về an toàn, kiểm dịch động thực vật và các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật khác.
Các rào cản kỹ thuật:
- Các quy định về kỹ thuật, tiêu chuẩn:
Hiện nay, Nigeria đã là thành viên của thỏa thuận về vấn đề rào cản kỹ thuật trong thương mại của WTO, nên mọi tiêu chuẩn và các yêu cầu kỹ thuật nhằm bảo vệ sức khỏe, an toàn và bảo vệ môi trường là bắt buộc.
Ở Nigeria, Văn phòng Quốc gia về quản lý và phân phối thuốc men và thực phẩm (NAFDAC) và Tổ chức Tiêu chuẩn Nigeria (SON) là 2 đơn vị có quyền thông báo lên WTO các quy định kỹ thuật và các tiêu chuẩn của Nigeria. Những thông báo về quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn do Chính phủ Nigeria thông qua được xuất bản trong cuốn “Công báo”.
- Các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ môi trường: Nigeria đã ký 1 số hiệp ước quốc tế về vấn đề bảo vệ môi trường liên quan tới sản xuất, kinh doanh phần lớn trong số đó đều gắn với hoạt động khai thác dầu và lâm nghiệp. Một trong những mục tiêu mà chính sách môi trường của Nigeria hướng tới là ngăn chặn việc nhập khẩu các mặt hàng bị cấm kinh doanh hay tiêu thụ trong nước.
Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời.
- Hoạt động bảo hộ: Mặc dù đã gia nhập WTO nhưng Nigeria vẫn chưa có một quy định pháp lý chính thức nào về hoạt động bảo hộ (như đã đề cập trong thỏa thuận WTO về bảo hộ). Vì thế Tổng thống Nigeria sẽ tự quyết định áp dụng thu thuế đối với các mặt hàng cụ thể rồi sau đó thông báo cho WTO. Nigeria cũng đã có một văn bản khước từ việc thực hiện các cam kết của WTO về bảo hộ cho đến khi hoàn chỉnh pháp lệnh về bảo hộ.
Các biện pháp quản lý hành chính:
- Hàng đổi hàng: Hoạt động buôn bán hàng đổi hàng và thu mua lại được Chính phủ Nigeria khuyến khích như những giải pháp để khắc phục việc khan hiếm ngoại hối. Tuy nhiên, Nigeria không khuyến khích việc coi xuất khẩu là công cụ để hỗ trợ việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Chi tiêu Chính phủ: Ngành kinh tế quốc doanh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế Nigeria. Phần lớn những chi tiêu Chính phủ về hàng hóa, dịch vụ và xây dựng đều mua từ các thị trường nước ngoài.
Các công ty muốn đấu thầu các dự án xây dựng lớn phải đăng ký với Hội đồng đăng ký công trình liên bang thuộc Bộ Lao động Liên bang. Thủ tục đăng ký phụ thuộc vào quy mô và tính chất dự án nhằm đảm bảo các công ty đảm nhận các dự án lớn phải là các công ty có đủ năng lực tài chính và kỹ thuật.
Các biện pháp về cán cân thanh toán:
Nigeria đã áp dụng điều XVIII của GATT quy định về việc hạn chế nhập khẩu vì lý do cán cân thanh toán lần đầu tiên năm 1982. Hiện nay, việc nhập khẩu một số mặt hàng vẫn bị cấm hoặc bị hạn chế vì những lý do tương tự. Nhưng xu hướng hiện nay là sẽ giảm dần danh mục các mặt hàng bị cấm/ hạn chế nhập khẩu. Thay vào đó, để cải thiện cán cân thanh toán, Nigeria sẽ áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ chặt và giảm thâm hụt..
2. Thủ tục Hải quan
Thủ tục nhập khẩu: Để có thể nhập khẩu hàng hóa vào Nigeria, người nhập khẩu phải xuất trình rất nhiều loại chứng từ, đây là 1 trong những trở ngại cho người nhập khẩu. Những chứng từ đó là:
- Tờ khai hải quan;
- Vận đơn;
- Các hóa đơn đã ký và chứng thực;
- Giấy chứng nhận xuất xứ;
- Giấy chứng nhận trị giá (người nhập khẩu kê khai giá trị thực của hàng hóa nhập khẩu);
- Phiếu đóng gói;
- Báo cáo xác định kết quả cuối cùng.
- Báo cáo thuế nhập khẩu;
- Chứng nhận ngân hàng về thủ tục Hải quan;
- Giấy chứng nhận Bảo hiểm;
- Tờ khai đăng ký điều chỉnh M
Ngoài ra, với những hàng hóa như: Thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, thuốc men, chất hóa học, mỹ phẩm và dụng cụ y tế khi nhập khẩu sẽ phải bổ sung thêm những chứng từ khác tùy theo yêu cầu kỹ thuật riêng để đảm bảo sức khỏe, an toàn, hoặc kiểm dịch động thực vật. Những hàng hóa nhập khẩu tạm thời, nhập khẩu hàng mẫu, hàng triển lãm cũng có yêu cầu xuất trình những chứng từ cần thiết khác (giống trường hợp hàng hóa quá cảnh hay chuyển tải tại Nigeria). Trong đó cần chú ý tới một số chứng từ sau:
- Hóa đơn thương mại: Yêu cầu phải có từ 4 đến 6 bản copy theo mẫu hóa đơn riêng của Nigeria. Hóa đơn thương mại phải có chữ ký của nhà sản xuất, nhà cung cấp hoặc người xuất khẩu nước ngoài. Trên hóa đơn gốc, con dấu của công ty và chữ ký qua Fax không được chấp nhận. Hóa đơn phải bao gồm : Tên đầy đủ và địa chỉ của nhà sản xuất, nhà cung cấp hoặc người xuất khẩu; tên đầy đủ của doanh nghiệp và địa chỉ của người xuất khẩu; số hiệu đơn đặt hàng của người nhập khẩu; thông báo về giá trị hàng hóa của nhà sản xuất, nhà cung cấp hoặc người xuất khẩu, ghi chú rõ người xuất khẩu là người sản xuất hay người cung cấp và dù thế nào thì người xuất khẩu cũng phải liên hệ với người nhập khẩu bằng bất cứ cách nào; giấy chứng nhận xuất xứ; Bảng kê chi tiết của hàng hóa gửi bán; đơn giá, tổng giá của mỗi loại hàng hóa ghi trên hóa đơn; chi phí đóng gói; cước vận chuyển và phí bảo hiểm, thủ tục phí, các chi phí khác và tổng giá của tất cả hàng hóa trên hóa đơn phải được ghi rõ theo giá FOB và giá CIF. Đơn vị mét phải được dùng để biểu thị trọng lượng và kích thước. Đối với mỗi loại phương tiện chuyên chở hàng gửi bán (không kể số lượng bao nhiêu) đều phải có hóa đơn tách biệt.
- Phiếu đóng gói: Khi hóa đơn thương mại không ghi chi tiết việc đóng gói thì cần phải có 1 phiếu đóng gói đi kèm. Phiếu đóng gói này cần chỉ rõ tên hàng, số lượng, trọng lượng (trọng lượng toàn phần và trọng lượng tịnh), và 1 bảng kê chi tiết về hàng hóa. Việc cần thiết phải có 1 phiếu đóng gói tách biệt đi kèm hóa đơn hay không phụ thuộc vào khoảng trống dành cho việc kê khai về hàng hoá trên hóa đơn thương mại rộng hay hẹp. Những hàng hóa được nhập khẩu vận chuyển bằng container thì buộc phải có kèm theo 1 phiếu đóng gói do nhà sản xuất, nhà cung cấp và người xuất khẩu chứng nhận.
- Hóa đơn chiếu lệ: Yêu cầu phải có 4 bản copy để xuất trình tới Ngân hàng trung ương nhằm mục đích dự tính ngoại hối. Hóa đơn chiếu lệ phải chỉ rõ giá FOB, cước vận chuyển và tất cả những khoản phụ phí như thủ tục phí và các chi phí tài chính 1 cách tách biệt.
- Vận đơn: Không cần phải có mẫu vận đơn riêng. Tên hàng và số lượng của hàng hóa ghi trên vận đơn phải chính xác với tên hàng và số lượng hàng hóa ghi trên các hóa đơn. Đối với hàng hóa, đặc biệt là hàng hoá thông quan tại Lagos thì trên vận đơn đường biển hoặc vận đơn đường hàng không cần ghi rõ một địa chỉ thông báo tại cảng hải quan. Người xuất khẩu nên cùng với người nhập khẩu kiểm tra để xác định xem có cần phải có thêm 1 bản copy vận đơn hay không.
- Báo cáo xác định kết quả cuối cùng: Là những chứng từ do Công ty PSI (Pre-shipment Inspection of Nigeria) lập cho người nhập khẩu sau khi đã tiến hành kiểm tra hàng hóa nhập khẩu. Có 3 loại báo cáo: Hóa đơn cuối cùng đã chứng thực (CFI); Hóa đơn chiếu lệ về giám định (DRI) và Báo cáo kiểm tra sạch (CRI) .
Tuy nhiên theo bản hướng dẫn mới về việc thông quan nhập khẩu ban hành ngày 17/9/2003 thì riêng với những loại phương tiện xe cộ cũ nhập khẩu thông qua nước láng giềng Cộng hòa Benin thì người nhập khẩu không phải xuất trình CRI. Cần phải chú ý rằng số CRI phải được ghi rõ trên hóa đơn cuối cùng, trên vận đơn cũng như đối với mỗi mặt hàng trong bản lược khai hàng hóa.
Trình tự thủ tục: Trước hết người nhập khẩu cần đăng ký 1 bản Modified form M (đối với hàng hóa) hoặc Form A (đối với dịch vụ). Có thể xin Form M này tại các công ty giám định hàng hóa, các đại sứ quán Nigeria, Ngân hàng Nigeria ở địa phương hoặc ở nước ngoài và các Ngân hàng đại lý của Ngân hàng Nigeria. Form M có thời hạn hiệu lực trong 6 tháng, có thể gia hạn thêm 6 tháng. Riêng với nhập khẩu máy móc thiết bị thì Form M có hiệu lực trong 1 năm và có thể gia hạn 1 năm. Trong Form M cần ghi rõ nó có giá trị đối với luật quản lý ngoại hối hay không (“Valid For Forex” or “not valid For Forex”). Form M cần được sao thành 6 bản copy như nhau, 3 bản gửi cho công ty giám định, 1 bản gửi cho Importer’s biro, 1 gửi cho cục Hải quan, 1 gửi cho NMA.
Kiểm tra trước khi vận chuyển (PSI):
PSI là 1 chương trình kinh tế nhằm hỗ trợ cho việc quản lý nhập khẩu ở các nước đang phát triển. PSI là dịch vụ do các công ty giám định độc lập cung cấp cho Chính phủ các nước ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ La Tinh từ 1965. Bản chất của dịch vụ này là việc người nhập khẩu thay mặt Chính phủ của các nước nhập khẩu tiến hành kiểm tra hàng hóa tại nước cung cấp (nước xuất khẩu). Mục tiêu trước hết của PSI là bảo vệ nguồn ngoại hối trong nước, gồm có sự chứng thực về số lượng, chất lượng và giá cả. Gần đây, nhằm nâng cao nguồn thu từ thuế, PSI còn bao gồm cả việc xác minh trị giá tính thuế (trị giá hải quan), mã số tính thuế và ước tính số thuế phải nộp.
Hiện nay, Nigeria là 1 trong các nước tham gia dịch vụ PSI. Chương trình PSI của Nigeria hiện nay đã được Chính phủ Nigeria hướng dẫn thực hiện từ 1/9/1999. Mọi hàng hóa được phép nhập khẩu vào Nigeria đều phải tiến hành kiểm tra trước khi giao hàng (tại nước cung cấp, xuất khẩu), trừ những hàng hóa được miễn. Chương trình này đã phân chia trách nhiệm giám định, kiểm tra cho 4 công ty, mỗi công ty chịu trách nhiệm kiểm tra hàng hóa nhập khẩu từ 1 nhóm nước riêng. 3 trong 4 công ty đó là Cotecna, Swede control/ Intertek và SGS. Hàng hóa từ Việt Nam xuất khẩu sang Nigeria sẽ do SGS đảm nhiệm kiểm tra. Như vậy, khi hàng hóa được xuất khẩu từ nước ngoài vào Nigeria, sẽ có 3 bên tham gia PSI là: người xuất khẩu, người nhập khẩu và công ty giám định, cơ bản phải tiến hành các thủ tục sau:
1. Người xuất khẩu phải gửi cho công ty giám định Form M và những chứng từ cần thiết, kể cả hóa đơn chiếu lệ. Form M cũng chính là 1 đơn yêu cầu giám định.
2. Công ty giám định sẽ kiểm tra Form M và hóa đơn chiếu lệ rồi gửi cho đơn vị đại lý của mình tại nước cung cấp/nước xuất khẩu.
3. Khi nhận được Form M và hóa đơn chiếu lệ, đơn vị đại lý ngay lập tức sẽ gửi 1 giấy yêu cầu cung cấp thông tin RFI cho người xuất khẩu, trong đó nêu rõ những thông tin chính và những giấy tờ mà người xuất khẩu cần cung cấp để tiến hành PSI. Những thông tin này liên quan tới: Địa điểm, thời gian mà hàng hóa sẽ sẵn sàng để kiểm tra (công ty giám định cần nhận được thông tin này ít nhất 7 ngày làm việc trước ngày kiểm tra thực tế). Trên RSI cũng nên ghi rõ rằng: Công ty giám định buộc phải tiến hành việc kiểm tra thực tế càng sớm càng tốt sau khi người xuất khẩu thông báo rằng hàng hóa đã sẵn sàng để kiểm tra. Người xuất khẩu cũng cần nhanh chóng điền đầy đủ thông tin và gửi RFI lại cho đơn vị đại lý để việc kiểm tra được hoàn thành sớm.
4. Khi nhận được RFI trên đó người xuất khẩu đã điền đầy đủ các thông tin được yêu cầu, đơn vị đại lý sẽ cử 1 nhân viên giám định tới gặp người đại diện của người xuất khẩu tại địa điểm tiến hành kiểm tra để thỏa thuận về ngày và giờ sẽ tiến hành kiểm tra thực tế. Mục đích của việc kiểm tra thực tế là để thẩm tra sự phù hợp của hàng hóa cần kiểm tra với quy cách, phẩm chất ghi trong hợp đồng trong hóa đơn chiếu lệ hay bất cứ tiêu chuẩn nào đã nói trước đó. Người xuất khẩu sẽ phải cung cấp cho đơn vị đại lý bản copy phiếu đóng gói, hóa đơn cuối cùng và bất cứ chứng từ nào khác mà họ yêu cầu.
5. Tiến hành kiểm tra thực tế: Trong trường hợp gửi hàng nguyên container (FCL), việc kiểm tra thực tế sẽ được tiến hành vào thời gian xếp hàng vào container. Nhân viên kiểm tra có thể sẽ đóng dấu niêm phong container nhưng không có sự ràng buộc trách nhiệm theo hợp đồng trong việc đóng dấu niêm phong container.
6. Sau khi kiểm tra thực tế, nhân viên kiểm tra sẽ lập cho người xuất khẩu 1 báo cáo giám định vật lý để xác nhận kết quả của việc kiểm tra thực tế. Có thể xảy ra 1 trong các kết quả sau:
* Đạt yêu cầu: Ghi nhận rằng hàng hóa tuân theo đúng các điều khoản của Hợp đồng
* Chấp nhận có điều kiện: Ghi nhận rằng người nhập khẩu cần tiếp tục cung cấp những thông tin bổ sung như giấy chứng nhận kiểm tra hoặc giấy chứng nhận phân tích. Nếu người xuất khẩu chấp nhận và cung cấp những thông tin/ hứng từ bổ sung được yêu cầu thì chấp nhận có điều kiện sẽ trở thành đạt yêu cầu.
* Không phù hợp: Ghi nhận rằng hàng hóa không phù hợp với hợp đồng hoặc hóa đơn chiếu lệ như thiếu số lượng. Nếu người nhập khẩu nhanh chóng chấp nhận điều kiện giao hàng từng phần thì từ không phù hợp có thể trở...