Tỷ lệ nữ trong xuất khẩu lao động thời kỳ từ 1990 đến nay đang có xu hướng ngày càng tăng, trung bình trong thời kỳ này là 21,7% do Việt Nam đã và đang dần đi vào khai thác các thị trường sản xuất và dịch vụ. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ lao động nữ đã tăng lên đạt mức gần 26%. Cụ thể năm 2000: 28,7%, năm 2001: 21,3%, năm 2002: 22,8%, 8 tháng đầu năm 2003: 32,2%.
Tỷ lệ lao động nữ xuất khẩu tăng hay giảm phụ thuộc vào đặc điểm thị trường. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1990, tỷ lệ này rất cao, khoảng 40%, do thị trường này chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, chế biến thực phẩm... là những ngành nghề phù hợp với nữ. Còn giai đoạn từ 1990 cho đến nay, xuất hiện thêm với rất nhiều ngành nghề khác phù hợp với nam giới như cơ khí, giáo dục, chuyên gia y tế, đặc biệt là xây dựng, công nghiệp cơ khí, cầu đường, thuyền viên... Mặc dù vậy, trong thời gian qua, lao động nữ vẫn chiếm ưu thế lớn trong một số lĩnh vực như dệt may- 68,8%, điện tử- 80%...
Tuy nhiên, chơng trình xuất khẩu lao động nữ cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, kể cả từ phía người lao động lẫn từ phía các nhà quản lý.
Về phía ngời lao động: Do đa số lao động nữ đều xuất thân từ nông thôn, là lao động phổ thông, nên còn có những hạn chế nhất định bên cạnh những hạn chế chung như: ngoại ngữ kém, nhận thức cha đúng hoặc thiếu nhận thức đầy đủ về quan hệ chủ - thợ, về tác phong công nghiệp trong kinh doanh hay chưa hiểu rõ về phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động. Lao động nữ trong chương trình xuất khẩu lao động còn có những hạn chế đặc trưng như sau:
Về đặc điểm thị trường, lao động nữ chỉ hạn chế ở những thị trường có công việc phù hợp trong những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ như: công nhân ngành may mặc, da giầy, dệt, công việc gia đình hay một số dịch vụ khác.
Hai là về tâm sinh lý của lao động nữ. Phần lớn người lao động nữ Việt Nam đều có bản tính nhút nhát, rụt rè, chưa quen tiếp xúc với người nớc ngoài, môi trường làm việc và sinh hoạt không phù hợp... Bên xuất khẩu lao động và tiếp nhận lao động thường rất e ngại trong việc sử dụng lao động nữ, thường kèm theo một số các điều kiện nhạy cảm như vấn đề thai sản, quản lý sinh hoạt khác... Bên cạnh đó, người phụ nữ còn mặc cảm về một số nghề nghiệp như nghề giúp việc gia đình, phục vụ bán hàng, phục vụ ăn uống, chăm sóc ăn uống... coi những công việc này là hèn kém. Hầu hết những phụ nữ đi xuất khẩu đều chỉ muốn làm công nhân. Điều này dẫn đến tình trạng có quá nhiều người xin đi thi tuyển làm công nhân, trong khi nhu cầu tuyển lao động nữ giúp việc và khán hộ gia đình đều rất cao, nhưng không tuyển đủ số người cần thiết, hay không tuyển được.
Ba là những hạn chế trong gia đình và định kiến xã hội, đặc biệt là ở những vùng nông thôn. Ngời phụ nữ trong gia đình thường được coi là người nội trợ, chăm sóc con cái, bên cạnh đó, hầu hết những chị em có nhu cầu và phù hợp với các chương trình xuất khẩu đều là những người đã lập gia đình ổn định và đã có con cái, nên việc tham gia chương trình xuất khẩu lao động thường ít được gia đình hưởng ứng. Một số lao động nữ đã phải về nước trước thời hạn do sức ép từ phía gia đình. Điều này vừa ảnh hưởng đến kinh tế của bản thân, gia đình, vừa tốn hao sức khoẻ, tâm trí, thời gian và thậm chí còn gây ra dư luận không tốt về xuất khẩu lao động nữ.
Về khía cạnh quản lý, vấn đề thường gặp là khâu tuyển chọn lao động. Một số lao động nữ khi sang nước bạn làm việc không đáp ứng đủ tiêu chuẩn sức khoẻ, hình thức hoặc bị mắc các chứng bệnh xã hội, bị mang thai, hay do ngoại ngữ yếu, không trung thực, kỹ năng lao động yếu, lười biếng, hoặc do nhận thức không đúng về công việc tại nước ngoài, nghĩ rằng ra nước ngoài làm việc là an nhàn, không chịu khó làm việc, bị trả về nước trước thời hạn.
Do nhu cầu xuất khẩu lao động lớn, lại trong tình trạng thiếu thông tin, nên nhiều người, trong đó có lao động nữ- nhất là ở nông thôn- thường bị các “cò lao động”, các công ty môi giới không có chức năng xuất khẩu lao động lợi dụng, lừa đảo để chiếm dụng vốn, thu phí không đúng quy định hay lừa đi xuất khẩu lao động bằng hình thức du lịch, buôn bán phụ nữ qua biên giới... Tình trạng này đã được nhiều kênh thông tin đại chúng cảnh báo và đăng tải, các nhà quản lý lên tiếng.
Do sự phối hợp quản lý lao động giữa các bên thiếu chặt chẽ nên lao động nữ còn là đối tượng của sự lạm dụng tình dục khi làm việc ở nước ngoài hoặc không được làm đúng những nghề nghiệp hay công việc theo như cam kết trong hợp đồng. Chẳng hạn, những bất cập trong sắp xếp người quản lý trong các nhóm công nhân người Việt ở Malaysia sẽ rất khó khăn cho việc quản lý và bảo vệ quyền lợi của người lao động, hoặc phối hợp thế nào để có những biện pháp quản lý lao động, giải quyết vấn đề lao động cư trú bất hợp pháp ở Hàn Quốc và Đài Loan.
Một số cơ quan, tổ chức, được phép xuất khẩu lao động cha làm hết chức năng, trách nhiệm của mình, dẫn đến việc chậm giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tế, ảnh hưởng đến lợi ích và an toàn cho người lao động. Chẳng hạn việc giải quyết vụ nữ công nhân may ở đảo Samoa (năm 2000) hay gần đây là những vụ lừa đảo người lao động đi du lịch “tìm việc làm” tại Thái Lan và Malaysia.
Một vấn đề liên quan đến khía cạnh quản lý lao động là việc các doanh nghiệp, tổ chức được phép xuất khẩu lao động không tìm hiểu kỹ các điều kiện thực tế, chế độ làm việc hay quyền lợi của người lao động tại nơi đến (lương thấp, điều kiện và chế độ làm việc...) hoặc đơn thuần chạy theo lợi nhuận (thu tiền thế chấp cao, phí môi giới hay tỷ lệ % từ thu nhập hằng năm của người lao động) đã đẩy người lao động vào thế phải bỏ trốn để mu cầu cuộc sống tốt hơn hoặc bù đắp chi phí, vay nợ. Điều này vừa đẩy người lao động, trong đó có rất nhiều lao động nữ, vào tình trạng cư trú bất hợp pháp, vừa phá vỡ các hợp đồng kinh tế giữa các bên, gây khó khăn và giảm uy tín trong công tác xuất khẩu lao động.
Giải pháp bảo vệ lao động nữ trong tình hình hiện nay
Từ thực tế trên, để tạo điều kiện và tăng số lượng lao động nữ xuất khẩu, trước hết, cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu lao động nữ và mở rộng ngành nghề thu hút lao động nữ. Đặc biệt chú ý các thị trường tập trung nhiều ngành sản xuất và dịch vụ, trên cơ sở thực hiện tốt nghiệp vụ marketing xuất khẩu lao động nữ Việt Nam từ các cơ quan quản lý lao động, cơ quan ngoại giao và các tổ chức đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, cần tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng đến tận cơ sở, giúp người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng có nhu cầu đi lao động nước ngoài, nắm được các thông tin về thị trường lao động, yêu cầu, điều kiện tuyển dụng cũng như các cơ quan, đơn vị có chức năng tuyển dụng lao động, nhằm hạn chế việc người lao động bị lừa đảo hoặc gây phiền hà. Tăng cường thông tin về lao động ở nước ngoài còn góp phần xoá bỏ mặc cảm, nâng cao nhận thức gia đình và xã hội trong việc đưa nữ giới tham gia xuất khẩu lao động.
Thứ ba, tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng của lao động nói chung và lao động xuất khẩu. Cần có chính sách hỗ trợ để người lao động được chuẩn bị tốt hơn về trình độ ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn, hiểu biết phong tục tập quán cũng như lối sống... của nước đến, để người lao động có thể thích nghi với môi trường làm việc và sinh hoạt.
Thứ tư, tăng cường quản lý công tác xuất khẩu lao động. Nhà nước cần quy định chặt chẽ hơn đối với các tổ chức được phép xuất khẩu lao động về các điều kiện, năng lực, trách nhiệm đối với việc tuyển, đưa người đi lao động, quản lý và đảm bảo quyền lợi của họ trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cần thực thi các biện pháp ngăn chặn và xử phạt nghiêm minh những tổ chức, cá nhân tuyển lao động xuất khẩu trái phép, lừa đảo hoặc trá hình xuất khẩu lao động.
Phụ nữ đi xuất khẩu lao động trong điều kiện hiện nay không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân và gia đình, mà còn mang ý nghĩa nâng cao nhận thức, thay đổi thành kiến trong xã hội, phát huy quyền bình đẳng và nâng cao vị trí, cũng như vai trò của người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Bởi vậy, công tác xuất khẩu lao động nữ cần được Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa trong cơ chế và hoạch định chính sách; cần được các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thực hiện tốt hơn nữa trong các chương trình đào tạo cho người lao động trước khi ra nước ngoài làm việc.
Thực trạng xuất khẩu lao động nữ ở Việt Nam hiện nay
TCCT
Theo các nhà quản lý lao động, với bản tính cần cù, chịu khó, trong quá trình làm việc tại nớc ngoài, lao động nữ của Việt Nam luôn được đánh giá cao. Ngoài ra, lao động nữ còn có ý thức tuân thủ các