TÓM TẮT:
Bài viết phân tích các chỉ số đánh giá tiềm năng phát triển cụm liên kết ngành bằng phương pháp đánh giá Thương số vị trí LQ (Location Quotient) theo góc độ giá trị gia tăng (VA) và sự phân bố các doanh nghiệp phân theo các cụm ngành kinh tế. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu được tính toán từ niên giám thống kê về giá trị gia tăng của các doanh nghiệp liên quan tới 88 ngành cấp 2 tại chín tỉnh dọc sông Hồng. Bài nghiên cứu nhận định, để gia tăng tính liên kết trong cụm ngành các địa phương cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tích cực xúc tiến thương mại giúp doanh nghiệp địa phương tối đa hóa doanh thu và tối ưu chi phí đầu vào nhờ việc có nguồn cung dồi dào và tự chủ động trong sản lượng.
Từ khóa: cụm liên kết ngành, các tỉnh dọc sông Hồng, thương số vị trí, tiềm năng, ngành kinh tế cấp 2
1. Đặt vấn đề
Sông Hồng có tổng chiều dài khoảng 1.160 km bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy qua các tỉnh miền Bắc Việt Nam và đổ ra biển tại Vịnh Bắc Bộ. Trên lãnh thổ Việt Nam, sông Hồng có chiều dài 556 km chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam vào Việt Nam từ Hà Khẩu (Lào Cai) và chảy ra Vịnh Bắc Bộ ở cửa Ba Lạt (Nam Định). Sông Hồng chảy qua 9 tỉnh, bao gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình và Nam Định. Trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế và các nhà hoạch định chính sách ngày càng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hình thành các cụm liên kết ngành (Clusters), tạo ra động lực tăng trưởng lớn cho các ngành kinh tế, giải quyết các vấn đề về việc làm, cho phép thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các khu vực có lợi thế phát triển.
Krugman (1992) đưa ra khái niệm về cụm liên kết ngành và dựa trên ý tưởng ban đầu của Marshall để phân cụm. Krugman cho rằng, các cụm liên kết ngành được hình thành dựa trên 3 yếu tố: (1) chuyên môn hóa lao động, (2) chuyên môn hóa đầu vào và (3) sự lan tỏa kiến thức.
Theo Porter (2003): “Cụm liên kết ngành là sự gần nhau về mặt địa lý của các doanh nghiệp có liên kết với nhau và các thể chế có liên quan trong một lĩnh vực nào đó, gắn kết với nhau về mặt công nghệ và kỹ năng. Cụm liên kết ngành thường ở trong cùng một vùng địa lý nơi mà trao đổi liên lạc, tiếp vận và tương tác cá nhân dễ dàng”. Các nghiên cứu tiếp theo đã xác nhận những lợi ích của sự tập trung công nghiệp theo khu vực địa lý như Kuchiki (2008), Larissa Bozhko (2018), Anna H. Jankowiak (2012).
Theo Nguyễn Ngọc Sơn (2015), cụm liên kết ngành được định nghĩa là một hình thái tổ chức sản xuất trong một ngành/lĩnh vực cụ thể, trong đó các thành phần tham gia gồm các doanh nghiệp, các nhà cung cấp giải pháp kỹ thuật đặc thù, các nhà cung cấp dịch vụ, các thể chế liên quan liên kết và quần tụ trong một không gian địa lý nhất định, với vai trò nòng cốt là các doanh nghiệp liên kết kinh doanh.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu thập thông tin
Số liệu thứ cấp được thu thập từ niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê và Niên giám thống kê của 9 tỉnh dọc sông Hồng gồm Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình và Nam Định. Báo cáo của một số doanh nghiệp liên quan nằm trong cụm liên kết ngành tại các địa phương nói trên. Các số liệu liên quan đến 21 ngành cấp 1 và 88 ngành cấp 2 (theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg về danh mục Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam) của 9 tỉnh dọc sông Hồng được thu thập từ Tổng cục Thống kê.
Bài nghiên cứu thực hiện tìm hiểu, thu thập và tổng hợp dữ liệu liên quan đến giá trị gia tăng (VA) và số lượng doanh nghiệp của 21 ngành cấp 1 và 88 ngành cấp 2 trong giai đoạn từ năm 2012 - 2023. Nguồn dữ liệu tiếp cận theo VA sau khi thu thập được nhóm nghiên cứu tính toán, phân tích và so sánh để có cái nhìn tổng quan về sự phát triển cụm liên kết ngành các ngành kinh tế trong giai đoạn 2012 - 2023. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển cụm liên kết ngành, bài nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển cụm liên kết ngành dựa theo tiềm năng tại các tỉnh dọc sông Hồng.
2.2. Phương pháp nhận định tiềm năng phát triển cụm liên kết ngành bằng Thương số vị trí LQ (Location Quotient)
Thương số vị trí LQ là một trong những cách tiếp cận rất phổ biến trên toàn cầu hiện nay với mục tiêu phân tích và định hướng phát triển các ngành kinh tế tại địa phương, vùng hay khu vực. Chỉ số LQ đo lường mức độ tập trung địa lý/chuyên môn hóa của các ngành công nghiệp trong một khu vực so với trung bình quốc gia của ngành. Thương số vị trí cao hơn cho thấy sự tập trung hoặc chuyên môn hóa của ngành đó trong khu vực cụ thể đó đang ở mức cao. LQ của ngành i tại vùng r (LQir) được xác định như sau:
LQir = (Eir /Etr )/(Ein /Etn )
Trong đó:
LQir là thương số vị trí của ngành i, tại vùng (hoặc địa phương) r;
Eir là mức độ hoạt động của ngành i tại vùng (hoặc địa phương) r;
Etr là mức độ hoạt động của toàn nền kinh tế vùng (hoặc địa phương) r;
Ein là mức độ hoạt động của ngành i của quốc gia;
Etn là mức độ hoạt động của nền kinh tế quốc gia.
Ý nghĩa các khoảng giá trị:
+ Nếu LQ = 1: vùng có mức độ tập trung chuyên môn trong ngành i bằng với quốc gia.
+ Nếu LQ > 1: các ngành có chỉ số LQ > 1 có thể coi là ngành có mức độ tập trung, chuyên môn hóa cao, hay ngành có ưu thế, lợi thế phát triển hơn so với mức trung bình của quốc gia.
+ Nếu LQ < 1: các ngành có chỉ số LQ < 1 được xem là các ngành có mức độ tập trung, chuyên môn hóa thấp hơn mức trung bình cả nước, cũng là các ngành kém thuận lợi hơn, lợi thế so sánh thấp hơn so với một số vùng, khu vực nào đó trong cả nước.
Trong việc phân tích và xác định các cụm ngành tiềm năng có lợi thế phát triển hay yếu thế và có rủi ro cao dựa vào giá trị hiện hành của LQ trong một năm cố định và mức độ thay đổi của LQ theo khoảng thời gian xét tới (∆LQ), qua đó xác định được vị trí của ngành trên “Sơ đồ nhận diện xu hướng phát triển cụm ngành dựa trên LQ” với 4 nhóm chính: (1) nhóm ngành lợi thế - triển vọng, (2) nhóm ngành lợi thế - suy giảm, (3) nhóm ngành mới nổi, (4) nhóm ngành yếu thế - suy giảm (Niyimbanira, 2018; Deller và Williams, 2011).
Hình 1: Sơ đồ nhận diện xu hướng phát triển cụm ngành dựa trên LQ
∆LQ |
|
|
Yếu và đang phát triển: nhóm ngành mới nổi |
Phát triển mạnh: Cụm tiềm năng |
LQ |
Yếu và suy thoái |
Mạnh và đang giảm |
Nguồn: Niyimbanira (2018), Deller và Williams (2011).
Tương ứng với 4 vùng giá trị, 4 nhóm ngành được xác định cụ thể như sau:
+ Nhóm ngành lợi thế - triển vọng: Đây là những cụm ngành có giá trị LQ > 1 và mức độ gia tăng theo thời gian lớn (∆LQ > 0), những ngành được coi là mạnh và có tiềm lực lớn để phát triển trong tương lai.
+ Nhóm ngành lợi thế - suy giảm: Các ngành này tuy có giá trị LQ > 1 nhưng đang có xu hướng giảm dần theo thời gian do ∆LQ < 0. Những ngành thuộc nhóm này thường là các ngành có lợi thế cạnh tranh, có ưu thế phát triển nhưng đang có dấu hiệu suy giảm.
+ Nhóm ngành mới nổi: Các ngành có giá trị LQ < 1, tuy nhiên có xu hướng tăng dần theo thời gian (∆LQ > 0), được coi là các ngành “yếu đang phát triển” và có tiềm năng phát triển trong tương lai.
+ Nhóm ngành yếu thế - suy giảm: Nếu ngành có LQ < 1 và đang giảm dần theo thời gian với ∆LQ < 0 (thuộc góc phần tư phía dưới bên trái) được coi là ngành “yếu thế và đang suy giảm” và không nên coi đây là một cụm tiềm năng.
Thương số vị trí (LQ) có thể tiếp cận theo nhiều góc độ như: lao động, tổng giá trị gia tăng hoặc các chỉ số phản ánh hoạt động khác của ngành. Tuy nhiên, hạn chế của việc tính LQ tiếp cận theo dữ liệu lao động, việc làm có thể phản ánh không đúng mức độ tập trung và xu hướng phát triển của ngành, điển hình là các ngành có năng suất lao động thấp (mặc dù sự tập trung về lao động, việc làm lớn nhưng giá trị gia tăng của ngành không tương xứng). Do đó, căn cứ theo số liệu thu thập được và đối chiếu kết quả với các bài nghiên cứu trước, nhóm nghiên cứu đề xuất bổ sung phương pháp phân tích LQ tiếp cận theo giá trị gia tăng (VA) trong đánh giá, phân tích chỉ ra ngành có lợi thế và triển vọng phát triển của vùng.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Số liệu thống kê về cụm liên kết ngành tại 9 tỉnh dọc sông Hồng
Bài nghiên cứu thực hành ứng dụng chỉ số LQ tiếp cận theo góc độ giá trị gia tăng (VA) để thống kê, tính toán cho 21 ngành cấp 1 và 88 ngành cấp 2 tại 9 tỉnh dọc sông Hồng. Trong giai đoạn từ năm 2012 - 2023, tại 9 tỉnh dọc sông Hồng chứng kiến sự tăng trưởng của nhiều ngành và tiềm năng phát triển của nhiều cụm liên kết ngành. Thực tế cho thấy, trong năm 2021 có 60/88 ngành cấp 2 có giá trị LQ > 1, chiếm hơn 68% số ngành cấp 2 trải dài trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Các ngành lợi thế của vùng tập trung nhiều tại các nhóm ngành: chế biến chế tạo, xây dựng, bán buôn, bán lẻ, vận tải kho bãi, thông tin và truyền thông, các hoạt động chuyên môn, khoa học, kinh doanh, hành chính, dịch vụ hỗ trợ.
Với các lợi thế và tiềm năng tự nhiên, lợi thế vị trí và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại một số địa phương, khu vực 9 tỉnh dọc sông Hồng đã hình thành, thúc đẩy phát triển một số cụm ngành có vị thế, lợi thế cạnh tranh tương đối cao so với mức trung bình của cả nước. Trong đó, một số ngành nổi bật như:
- Khai thác tiềm năng về nguồn tài nguyên khoáng sản để phát triển các cụm ngành: khai thác quặng kim loại và khai khoáng khác; sản xuất kim loại; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim khác (vật liệu xây dựng…).
- Phát triển cụm ngành sản xuất sử dụng ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên: chế biến gỗ và SX SP từ gỗ; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic, sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu.
- Phát triển cụm ngành sản xuất, lắp ráp, buôn bán và sửa chữa các loại xe, phương tiện: sản xuất ô tô và xe có động cơ; sản xuất phương tiện vận tải khác; bán, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác.
- Sử dụng lợi thế về nhân công có tay nghề và kinh nghiệm để nâng cao khả năng phát triển của các cụm ngành liên quan đến xây dựng: xây dựng nhà các loại; xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng; hoạt động xây dựng chuyên dụng.
- Khai thác tiềm năng về thủy lợi và xử lý rác thải, nước thải: thoát nước và xử lý nước thải; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu.
- Tận dụng lợi thế về cơ sở hạ tầng vận chuyển, kho bãi phát triển các cụm ngành: vận tải đường sắt, đường bộ và vận tải đường ống; vận tải đường thủy; vận tải hàng không, kho bãi và các hoạt động hỗ trợ cho vận tải; bưu chính và chuyển phát.
- Phát triển các nhóm ngành dịch vụ, dịch vụ công, nghệ thuật và vui chơi giải trí.
3.2. Xu hướng phát triển cụm liên kết ngành tại 9 tỉnh dọc sông Hồng
Dựa vào sự thay đổi của thương số vị trí tiếp cận theo tổng giá trị gia tăng của các ngành trong giai đoạn 2012 - 2023, xác định xu hướng phát triển của các ngành kinh tế tại 9 tỉnh dọc sông Hồng thành 4 nhóm như sau: (1) Nhóm ngành lợi thế - triển vọng; (2) Nhóm ngành lợi thế - suy giảm; (3) Nhóm ngành mới nổi; (4) Nhóm ngành yếu thế - suy giảm.
Mặc dù số lượng cụm ngành tiềm năng tại 9 tỉnh dọc sông hồng lớn (chiếm gần 58% số lượng các ngành kinh tế) nhưng số lượng ngành thuộc nhóm lợi thế - triển vọng không nhiều, chỉ có 16/51 ngành tiềm năng thuộc nhóm này (chiếm hơn 31% số cụm ngành tiềm năng), nhưng có 34/51 cụm ngành thuộc nhóm lợi thế - suy giảm (chiếm 68%). Còn lại là các cụm ngành thuộc nhóm yếu thế - suy giảm và không có cụm ngành nào nằm trong nhóm cụm ngành mới nổi. Bên cạnh đó, một số cụm ngành thuộc nhóm lợi thế - triển vọng đang có xu hướng di chuyển dần sang vị trí của nhóm ngành lợi thế - suy giảm như: sản xuất trang phục; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy; bán buôn; giáo dục và đào tạo, cho thấy thực trạng các cụm ngành tiềm năng đang mất dần đi tiềm năng sẵn có và gặp khó khăn trong quá trình phát triển của ngành. (Hình 2)

Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả của sơ đồ xác định xu hướng, tiềm năng phát triển các ngành kinh tế hàm chứa nhiều gợi ý cho định hướng phát triển các cụm ngành kinh tế quan trọng trên địa bàn các tỉnh dọc sông Hồng
3.3. Mức độ phân bố doanh nghiệp các cụm ngành lợi thế tại 9 tỉnh dọc sông Hồng
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2022 của Tổng cục Thống kê, tổng số doanh nghiệp còn hoạt động đến hết năm 2022 của 88 ngành cấp 2 tại 9 tỉnh dọc sông Hồng là 234.357 doanh nghiệp. Hà Nội là địa phương dẫn đầu với 187.007 doanh nghiệp (chiếm 79,8% tổng số doanh nghiệp tại 9 tỉnh). Trong khi đó, Yên Bái là tỉnh có số lượng doanh nghiệp nhỏ nhất, toàn tỉnh trong năm 2022 có 2.020 doanh nghiệp chiếm chưa tới 1% tổng số doanh nghiệp tại 9 tỉnh. Mật độ doanh nghiệp trên 1000 dân tại khu vực này đạt 12,53 doanh nghiệp/1000 dân, cao hơn mức trung bình của cả nước trong năm 2022 là 9,01 doanh nghiệp/1000 dân. Mật độ doanh nghiệp/1000 dân tại 9 tỉnh dọc sông Hồng đứng thứ 2 chỉ sau vùng Đông Nam Bộ. (Bảng 1)
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp một số cụm ngành có ưu thế tại 9 tỉnh dọc sông Hồng
|
Công nghiệp khai khoáng |
Chế biến gỗ và SX SP từ gỗ |
Xây dựng chuyên dụng |
Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn |
Giáo dục và đào tạo |
Lào Cai |
61 |
16 |
52 |
82 |
29 |
Yên Bái |
74 |
95 |
32 |
45 |
17 |
Phú Thọ |
78 |
255 |
176 |
160 |
64 |
Vĩnh Phúc |
26 |
86 |
409 |
228 |
70 |
Hà Nội |
123 |
1039 |
4075 |
8327 |
2726 |
Hưng Yên |
4 |
85 |
397 |
206 |
65 |
Hà Nam |
88 |
43 |
186 |
104 |
22 |
Nam Định |
5 |
114 |
438 |
331 |
44 |
Thái Bình |
5 |
85 |
150 |
145 |
35 |
Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê
Qua Bảng số liệu thống kê doanh nghiệp (Bảng 1), một điều dễ dàng nhận thấy, Hà Nội luôn là địa phương dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp trong các ngành dù không có các lợi thế về khoáng sản nhưng các doanh nghiệp tham gia hoạt động khai thác, sản xuất, kinh doanh tại địa phương khác thường có trụ sở chính tại Hà Nội.
Tại các địa phương khác, số lượng doanh nghiệp có xu hướng thay đổi theo lợi thế ngành tại địa phương, địa phương có ưu thế phát triển cụm ngành nào thì số lượng doanh nghiệp tại địa phương đó lớn. Xét về ngành Khai khoáng, các doanh nghiệp tập trung nhiều hơn tại các tỉnh có trữ lượng khoáng sản lớn và đảm bảo tính ổn định. Một số các khoáng sản tập trung trữ lượng lớn tại khu vực này có thể kể đến như: sắt, đồng, vàng, đá quý, apatit, đá trắng (marble),…
Ngành Chế biến gỗ được đánh giá có tiềm năng phát triển nhờ vùng nguyên liệu ổn định, tập trung tại các tỉnh thuộc vùng TDMNPB như Yên Bái, Phú Thọ, Lào Cai. Trong đó, Phú Thọ được đánh giá có triển vọng phát triển nhất với chỉ số LQ = 6,95, cũng như số lượng doanh nghiệp ở mức cao.
Ngành Xây dựng chuyên dụng được đánh giá có xu hướng phát triển đồng đều tại các tỉnh dọc sông Hồng. Giai đoạn tới được dự báo sẽ là giai đoạn cao điểm giải ngân đầu tư công, mang đến nguồn việc lớn cho các doanh nghiệp xây dựng hạ tầng. Ngành Xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn có số lượng doanh nghiệp tập trung quy mô tại các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng.
Ngành Giáo dục thuộc vào nhóm ngành dịch vụ công và có vai trò then chốt trong quá trình phát triển của giáo dục đất nước nên yêu cầu khả năng phát triển đồng đều tại các địa phương. Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp ngành Giáo dục tại các địa phương còn hạn chế, đặc biệt là khi so với số lượng doanh nghiệp cùng ngành tại Hà Nội. Đây là dấu hiệu cho thấy ngành Giáo dục Việt Nam cần có thực hiện các giải pháp đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, tạo điều kiện thu hút nguồn đầu tư từ bên ngoài vì tiềm năng đầu tư giáo dục còn rất lớn.
4. Kết luận và khuyến nghị
4.1. Kết luận
Bài nghiên cứu xác định được một số cụm ngành có triển vọng phát triển mạnh mẽ tại các tỉnh dọc sông Hồng. Một số nhóm ngành có lợi thế phát triển tại khu vực này như: nhóm ngành về công nghiệp khai khoáng; vận tải kho bãi; một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và nhóm các ngành dịch vụ. Trong đó, các ngành như: khai thác quặng kim loại, sản xuất trang phục, chế biến gỗ và SX SP từ gỗ, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác, hoạt động xây dựng chuyên dụng, bán buôn, kho bãi và các hoạt động hỗ trợ cho vận tải, hoạt động của các đại lý du lịch và các DV hỗ trợ, giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển, các cụm ngành cần những nỗ lực hơn nữa trong việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường hợp tác cũng như quảng bá sản phẩm ra thị trường quốc tế. Chính sách hỗ trợ và khuyến khích từ phía Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và hấp dẫn cho các doanh nghiệp, tạo cơ chế khuyến khích hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI. Với những nỗ lực như vậy, sự tăng trưởng của các cụm ngành sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển bền vững của khu vực và đồng thời mở ra nhiều cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp trong tương lai.
4.2. Kiến nghị và giải pháp
Dựa vào phân tích và kết luận về tiềm năng phát triển cụm ngành tại 9 tỉnh dọc sông Hồng, bài nghiên cứu đưa ra một số đề xuất về giải pháp như sau:
Một là, tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ. Chính phủ và các địa phương phối hợp với các viện nghiên cứu, các trường đại học và các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư vào các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ trong quản lý, sản xuất và kinh doanh.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Cần có các chương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về công nghệ và quản lý kinh tế.
Ba là, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Chính phủ cần thiết lập các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành bằng cách giảm thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu và thiết bị nhập khẩu cần thiết cho quá trình sản xuất, tạo ra các khu công nghiệp hiện đại và cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Bốn là, khuyến khích hợp tác và liên kết. Nâng cao mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI, không chỉ là liên kết giữa các doanh nghiệp trong cụm liên kết ngành mà còn là liên kết với các doanh nghiệp ngoài cụm liên kết.
Năm là, tăng cường tiếp thị và quảng bá, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, tổ chức các chương trình quảng cáo và tiếp thị trực tuyến, tham gia các triển lãm và hội chợ quốc tế để quảng bá sản phẩm và thương hiệu; tổ chức các chương trình đào tạo và tư vấn để giúp các doanh nghiệp xây dựng và quản lý hiệu quả các chuỗi cung ứng, từ việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đến sản xuất và phân phối sản phẩm.
Tài liệu tham khảo:
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2024). Sản xuất công nghiệp trong nước nhiều điểm sáng
Niên giám thống kê các tỉnh giai đoạn 2016-2023
Nguyễn Ngọc Sơn (2015). Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài khoa học và công nghệ cấp nhà nước năm 2015.
Bozhko, L., Turgel, I., & Sapanova, R. (2021). New Approaches to Cluster Development in the Context of Industrial and Innovative Development of the Republic of Kazakhstan. In SHS Web of Conferences (Vol. 93, p. 05010). EDP Sciences.
Jankowiak, A. H. (2012). Cluster initiatives and the role of government in developing clusters. Prace i Materiały Instytutu Handlu Zagranicznego Uniwersytetu Gdańskiego, 31(1), 490-501.
Krugman, P. (1992). Geography and trade. MIT press.
Kuchiki, A. (2008). The flowchart approach to Industrial Cluster Policy, Palgrave Macmillan, New York.
Porter M.E. (2003). The economic performance of regions. Regional Studies, 37 (6/7), page 54-78.
Development potential of industry clusters in the provinces along the Red river
Bui Huy Nhuong1
Nguyen Ngoc Son1
Ngo Ngoc Duc1
1National Economics University
Abstract:
This study evaluates the development potential of industrial clusters using the Location Quotient (LQ) method, focusing on value added (VA) and the distribution of enterprises across economic sectors. Drawing on data from statistical yearbooks, the research analyzes value-added metrics for 88 level-2 industries across nine provinces in the Red River Delta. The findings highlight the importance of strengthening intra-cluster linkages through workforce development and trade promotion. To enhance cluster connectivity and performance, localities should prioritize cultivating a skilled labor force and fostering trade networks that enable enterprises to increase revenue and reduce input costs through localized supply chains and self-sufficient production.
Keyword: industrial clusters, provinces along the Red River, location quotient, potential, level-2 economic sectors.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 12 năm 2025]