TỔNG THUẬT: Phiên chất vấn và trả lời chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực Công Thương ngày 4/6

Chiều 4/6, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì và điều hành của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội khóa XV tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp 7 nhóm vấn đề thứ hai thuộc lĩnh vực Công Thương.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Đại biểu Nguyễn Minh Hoàng - Đoàn ĐBQH TP. Hồ Chí Minh: Thương mại điện tử đang thúc đẩy nền kinh tế số quốc gia, tuy nhiên, hoạt động thương mại điện tử trong thời gian qua đã và đang bị các đối tượng lợi dụng để kinh doanh buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và lợi dụng cả thương mại điện tử để lừa đảo và chiếm đoạt tài sản. Các hành vi vi phạm này ngày càng tinh vi và khó lường cả về quy mô lẫn địa bàn hoạt động, nhất là đối với các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt là hoạt động thương mại điện tử trên mạng xã hội hiện nay rất phức tạp.

Đề nghị Bộ trưởng cho biết, trong thời gian tới để hạn chế và ngăn chặn hoạt động của thương mại điện tử và hành vi vi phạm của nhóm đối tượng này nhằm hướng tới phát triển thương mại điện tử lành mạnh và bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng, Bộ trưởng sẽ triển khai những giải pháp như thế nào? Đồng thời, liên quan đến vấn đề này, việc triển khai thu thuế trên lĩnh vực thương mại điện tử trên mạng xã hội sẽ được thực hiện như thế nào?

Đại biểu Mai Khanh - Đoàn ĐBQH Ninh Bình: Bộ Công Thương hiện công khai danh sách các website bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật trên Cổng Thông tin hoạt động thương mại điện tử. Xin hỏi việc công khai thông tin này có vô tình tiếp tay cho hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không? Xin Bộ cho biết, Bộ đang thực hiện cơ chế nào để xác minh thông tin trước khi công khai?

Đại biểu Dương Minh Ánh - Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội: (1) Một trong những vấn đề hạn chế của thương mại điện tử là khó xây dựng lòng tin của người tiêu dùng, trong đó vấn đề về bảo mật và an toàn thông tin cá nhân, các trường hợp vi phạm dữ liệu cá nhân và gian lận thương mại khiến cử tri lo lắng và do dự khi tiến hành thanh toán trực tuyến. Đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp về vấn đề nêu trên.

(2) Theo khảo sát của Hiệp hội Công Thương tại sáu tỉnh, thành phố với 127 doanh nghiệp tham gia khảo sát, trong đó có 69,99% doanh nghiệp mất hai tháng để hoàn tất thủ tục pháp lý cho kinh doanh và hơn 70% doanh nghiệp cho biết là thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp và chậm ở tất cả các khâu. Đề nghị Bộ trưởng cho biết nguyên nhân và giải pháp để giải quyết vấn đề nêu trên.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Có thể nói, trong thương mại tử, Việt Nam đang phải đối mặt với 3 thách thức rất lớn, đó là: (i) Người tiêu dùng phải đối mặt với mất an toàn dữ liệu cá nhân; (ii) Hàng giả, hàng kém chất lượng, tính an toàn thấp chưa được kiểm soát chặt chẽ, đã và đang bao vây, sẵn sàng đổ bộ vào nước ta, ảnh hưởng tới cả doanh nghiệp sản xuất cũng như người tiêu dùng; (iii) Thất thu thuế - không thể không thừa nhận rằng có một tỷ lệ đáng kể.

Về vấn đề bảo vệ an toàn dữ liệu cá nhân, đúng là có tình trạng lộ lọt trong việc mua bán, chiếm đoạt dữ liệu cá nhân trên môi trường mạng tuy không phổ biến. Thời gian qua, Bộ Công Thương đã nhận diện rõ vấn đề này và đã nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 và Nghị định 55/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để hướng dẫn thi hành luật, trong đó có bổ sung nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng như xây dựng quy tắc bảo vệ thông tin, bảo đảm an toàn, an ninh của người tiêu dùng,... Luật này có hiệu lực từ ngày 1/7 năm nay, hy vọng rằng sẽ góp phần khắc phục tình trạng trên.

Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành chức năng, đặc biệt là Bộ Công an trong việc xây dựng Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm các quy định của pháp luật toàn diện trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thương mại điện tử.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh truyền thông về các quy định mới của pháp luật, về Nghị định hướng dẫn. Yêu cầu các tổ chức, cá nhân kinh doanh tuân thủ xây dựng quy tắc bảo vệ thông tin và yêu cầu các sàn giao dịch thương mại điện tử phải công khai chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng.

Thách thức thứ hai là bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ hàng Việt, có thể nói, đại biểu đã phản ánh rất đúng về tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng thông qua thương mại điện tử xâm nhập vào thị trường của chúng ta, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.

Trước tình trạng này, Bộ Công Thương đã thường xuyên khuyến nghị với người sản xuất trong nước cần phải chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, nhất là trên môi trường thương mại điện tử.

Cùng với đó, trình cấp có thẩm quyền ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 và Nghị định hướng dẫn triển khai; Đề án chống hàng giả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử; và triển khai cơ chế trực tuyến 24/7 để tiếp nhận phản ánh của người tiêu dùng cả nước. Riêng trong năm 2023, cổng này đã tiếp nhận và gỡ bỏ hơn 18.000 sản phẩm và chặn hơn 5.000 gian hàng vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc, xuất xứ để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng qua thương mại điện tử.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục chủ động phối hợp các Bộ, ngành chức năng, tham mưu với Chính phủ xem xét, ban hành Nghị định về quản lý hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử. Theo đó, cố gắng tách bạch giữa luồng hàng hóa thông thường với hàng hóa thương mại điện tử để tăng cường quản lý người bán nước ngoài qua kênh này.

Thứ hai, tham mưu Chính phủ xem xét bãi bỏ quy định miễn thuế giá trị gia tăng với hàng hóa nhập khẩu giá trị nhỏ, để tránh tình trạng nhập khẩu qua thương mại điện tử, cạnh tranh với hàng trong nước mà không bị áp thuế.

Hiện nay theo quy định hiện hành, những hàng hoá có giá trị dưới 1.000.000 đồng thì không phải áp thuế giá trị gia tăng và thuế nhập khẩu, nên cũng tạo ra sự cạnh tranh. Qua theo dõi, chúng tôi thấy có 4 sàn nước ngoài lớn đang khai thác ở chúng ta mỗi tháng cũng khoảng trên dưới 1 tỷ USD hàng nhập khẩu. Điều đó đồng nghĩa là sẽ có một lượng thuế của chúng ta bị thất thoát ở chỗ này nếu như không điều chỉnh quy định hiện hành.

Thứ ba, có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập.

Thứ tư, đẩy mạnh Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, nhất là trên thương mại điện tử.

Thứ năm, tăng cường kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng nhập qua môi trường điện tử.

Thách thức thứ ba là việc chống thất thu thuế. Thời gian vừa qua, thực tế qua thương mại điện tử đã giao dịch với một lượng rất lớn, như tôi đã báo cáo doanh số lên tới gần 21 tỷ USD và vì vậy, việc nộp thuế trong lĩnh vực này của năm 2023 theo thống kê là gần 100.000 tỷ đồng, tăng 16,1% so với năm 2022.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận là còn thất thu thuế trong lĩnh vực này. Mặc dù vậy, theo quy định hiện hành, Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì quản lý trong lĩnh vực thuế. Bộ Công Thương trong thời gian qua đã tích cực phối hợp với ngành thuế, Bộ Tài chính chia sẻ dữ liệu của hơn 900 website và gần 300 ứng dụng, sàn giao dịch thương mại điện tử để thực hiện việc rà soát, tăng  cường quản lý thuế trong thương mại điện tử.

Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung về thương mại điện tử, chia sẻ liên thông với các Bộ, ngành liên quan để phục vụ công tác quản lý thuế và hải quan.

Thứ hai, khẩn trương hoàn thành kết nối hệ thống giữa cơ quan chức năng của Bộ Công Thương và Tổng cục Thuế để trao đổi dữ liệu các website ứng dụng thương mại điện tử bán hàng và website ứng dụng cung cấp dịch vụ thương mại điện tử trong tháng 6/2024. Như vậy sẽ trước thời gian mà Thủ tướng chỉ đạo 1 năm rưỡi.

Tăng cường phối hợp với Bộ Công an trong việc thực hiện áp dụng định danh điện tử cho người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử để tăng cường hiệu quả quản lý, chống thất thu thuế.

Cuối cùng, tích cực phối hợp với Tổng cục Thuế trong việc thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân hoạt động trên cái thương mại điện tử không kê khai nộp thuế.

Vấn đề thứ ba, thương mại điện tử là mô hình kinh doanh hiện đại và tiện lợi nhưng do đặc thù của môi trường mạng nên để tăng cường quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ người tiêu dùng thì Bộ đã công khai danh sách các website thương mại điện tử bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, như đại biểu đã nêu, bên cạnh những tác dụng thì biện pháp này có thể bị lợi dụng để các đối thủ cạnh tranh bêu xấu nhau, trước tình hình đó, Bộ đã thực hiện quy trình tiếp nhận và công khai thông tin rất là chặt chẽ theo một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, chỉ công khai những website có trên 5 ý kiến phản ánh kèm theo thông tin đầy đủ về người phản ánh.

Thứ hai, yêu cầu các website bị phản ánh phải giải trình, sau khi xác minh rõ nội dung phản ánh thì mới công khai danh sách có dấu hiệu vi phạm trên cổng. Như vậy, hạn chế tối đa việc đối thủ lợi dụng để bêu xấu nhau.

Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp như vận hành và nâng cấp công thông tin quản lý hoạt động thương mại điện tử. Đẩy mạnh xử lý khiếu nại của người tiêu dùng trực tuyến.

Thứ hai, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm nhằm giảm thiểu tối đa các hành vi không lành mạnh trong môi trường thương mại điện tử.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.

Thứ tư, thông tin hướng dẫn người tiêu dùng nâng cao kỹ năng giao dịch trên môi trường thương mại điện tử.

Thứ năm, phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông để tăng cường truyền thông cho xã hội, đặc biệt là người tiêu dùng, phải là người tiêu dùng thông thái để tránh được những hiện tượng lừa đảo trên thương mại điện tử.

Ngoài ra, hoạt động thương mại điện tử phát triển phát sinh nhiều vấn đề, trong đó có tình trạng lộ lọt, mất thông tin như tôi đã báo cáo ở phần trên và các giải pháp trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp như đã báo cáo với các đại biểu ở nhóm vấn đề thứ nhất.

Trả lời chất vấn

Đại biểu Lê Thị Thanh Lam - Đoàn ĐBQH tỉnh Hậu Giang: Các hoạt động xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử đang phát triển. Bộ Công Thương được giao xây dựng chính sách quản lý các giao dịch trong hoạt động thương mại điện tử đối với hàng xuất nhập khẩu. Đề nghị Bộ trưởng cho biết các chính sách ban hành thời gian qua và trước khi ban hành chính sách đó, việc quản lý các giao dịch trong thương mại điện tử đối với hàng xuất nhập khẩu được thực hiện như thế nào?

Đại biểu Đỗ Chí Nghĩa - Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Yên: Trong thời gian qua, mạng xã hội xôn xao vì những vụ livestream bán hàng trên các ứng dụng, doanh thu có thể lên đến hàng trăm tỷ một ngày. Xin hỏi Bộ trưởng, thứ nhất thông tin quảng bá đó liệu có đúng hay không? Với hình thức kinh doanh thương mại điện tử như thế, chúng ta cần phải làm thế nào để quản lý được chất lượng của các sản phẩm này? 

Thứ hai, giá bán của các sản phẩm qua thương mại điện tử lại thấp hơn nhiều giá bán buôn cho các đại lý đang gây bất ổn thị trường. Ví dụ như trong các livestream trị giá cả chục tỷ, cả trăm tỷ như đã nói ở trên. Như vậy, các cơ quan quản lý nhận định vấn đề như thế nào và hướng xử lý ra sao? Chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm nào trên thế giới để xử lý triệt để vấn đề này?

Đại biểu Dương Khắc Mai - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông: Hoạt động xuất khẩu đạt được những kết quả khá ấn tượng, thể hiện ở việc xuất siêu liên tục trong những năm gần đây. Tuy nhiên khi thực hiện các FTA, hàng hóa của Việt Nam sẽ đối mặt nhiều hơn với các biện pháp phòng vệ thương mại, rào cản kỹ thuật phi thuế quan của các nước. Đồng thời, trước tình hình diễn biến phức tạp, khó lường trên thế giới như tình hình Biển Đỏ, gây bất lợi cho vận tải hàng hóa quốc tế. Bên cạnh đó dịch vụ logistics và năng lực vận tải trong nước còn hạn chế, phụ thuộc vào các hãng tàu nước ngoài, nên cước vận tải tăng cao, làm giá hàng hóa tăng theo, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Xin Bộ trưởng cho biết các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu bền vững trước mắt cũng như trong dài hạn?

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Thưa đại biểu Minh Ánh, đúng là trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã rất nghiêm túc thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thường xuyên rà soát và cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại điện tử.

Hiện nay các thủ tục hành chính của chúng tôi đã được cung cấp dưới dạng dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở cấp độ 4, các quy trình thủ tục đã được tự động hóa, cắt giảm tối đa để giảm thời gian xử lý.

Riêng năm 2023, Bộ Công Thương đã xử lý hơn 10.000 hồ sơ trong lĩnh vực này, một khối lượng rất lớn mà nếu như không áp dụng công nghệ thì không thể thực hiện được. Tuy nhiên, trong thực tế, như đại biểu phản ánh, có một số ít trường hợp thủ tục cần nhiều thời gian xử lý liên quan đến hồ sơ của hai nhóm.

Thứ nhất là trường hợp doanh nghiệp thuộc diện chi phối thị trường, thì cần phải lấy ý kiến của một số Bộ, ngành, trong đó đặc biệt lấy ý kiến của Bộ Công an. Vậy nên cũng cần có thời gian để các cơ quan chức năng của các bộ, ngành thẩm tra, thẩm định và trả lời. 

Thứ hai là trường hợp kinh doanh hàng hóa có điều kiện cũng vậy, phải lấy ý kiến của nhiều ngành, và khi mình hỏi thì các cơ quan chức năng phải đi tìm hiểu mới trả lời một cách chính xác được. Cho nên là có hiện tượng là chậm trễ như vậy. 

Thế còn tất cả những trường hợp khác thì không thể nói là Bộ Công Thương chậm trễ trong việc giải quyết các thủ tục cho khách hàng.

Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục làm tốt việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ khi giải quyết các thủ tục hành chính và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong tiếp nhận, giải quyết các thủ tục và cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực thương mại điện tử. 

Thứ hai, tăng cường giám sát, thống kê và giải quyết thủ tục hành chính, bảo đảm chất lượng và thời gian giải quyết hồ sơ theo quy định.

Thứ ba, hoàn thiện cơ sở dữ liệu dùng chung về thương mại điện tử để kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan quản lý nhà nước như Tổng cục Thuế, các cơ quan chức năng của công an, các cơ quan liên quan để phục vụ việc khai thác thông tin và xử lý nhanh vụ việc.

Tôi xin trả lời câu hỏi của đại biểu Thanh Lam về hoạt động xuất nhập khẩu thương mại điện tử. Có thể nói, xuất khẩu trong thương mại thông thường thì chúng ta quản lý đã khó, mà quản lý hoạt động xuất nhập khẩu trên môi trường thương mại điện tử thì còn khó gấp nhiều lần. 

Trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã tích cực tham mưu cho Chính phủ và Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 và phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử. 

Thứ hai, tham mưu chính sách quản lý thông tin giao dịch thương mại điện tử đối với hàng xuất nhập khẩu, cụ thể là trình Chính phủ Nghị định số 85/2021/NĐ-CP yêu cầu công bố thông tin các website thương mại điện tử, quy định quản lý thông tin và chất lượng hàng hóa trên các sàn giao dịch, đặc biệt chú trọng đến trách nhiệm của cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ và bán hàng dịch vụ trên sàn thương mại điện tử. 

Thứ ba, tăng cường đẩy mạnh cơ chế kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành và các địa phương, kết nối dữ liệu giữa các cơ quan chức năng thuộc Bộ Công Thương với Tổng cục Thuế để trao đổi dữ liệu về thương mại điện tử ngay trong tháng 6 này như tôi đã báo cáo ở phần trên.

Thứ tư, ban hành cơ chế giám sát hoạt động đầu tư nước ngoài trong thương mại điện tử, phối hợp tham mưu Chính phủ đưa thương mại điện tử là ngành nghề tiếp cận thị trường có điều kiện với nhà đầu tư nước ngoài trong Luật Đầu tư; giám sát chặt chẽ các hoạt động mua bán, thâu tóm doanh nghiệp trong nước của các sàn thương mại điện tử lớn bao gồm cả sàn thương mại điện tử có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian tới, để tăng cường quản lý giao dịch thương mại điện tử đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương đề nghị Chính phủ xem xét sớm ban hành quản lý về hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại điện tử, tách bạch luồng hàng hóa thông thường với hàng hóa thương mại điện tử như tôi đã báo cáo ở trên, và bỏ quy định về miễn thuế nhập khẩu và thuế gia tăng đối với những hàng nhập khẩu có giá trị nhỏ dưới 1.000.000 đồng.

Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát về nguồn gốc, xử lý để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng nhập khẩu qua thương mại điện tử. 

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Về câu hỏi tiếp theo là thương mại xuyên biên giới đặt ra nhiều rủi ro đối với nền kinh tế và doanh nghiệp trong nước, có thể nói rằng để kiểm soát hàng hóa của nước ngoài ồ ạt thống lĩnh vào thị trường thì Bộ Công Thương đã khuyến nghị các doanh nghiệp và người sản xuất ở trong nước cần phải chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với các hàng hóa nhập khẩu; đồng thời đẩy mạnh triển khai Cuộc vận động Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt Nam và thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu trực tuyến. 

Thường xuyên tổ chức các cuộc thanh, kiểm tra, kiểm soát về nguồn gốc xuất xứ để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng nhập khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới.

Trong thời gian tới Bộ Công Thương sẽ đề xuất Chính phủ sớm ban hành nghị định về quản lý hải quan như tôi báo cáo ở trên; rồi là sửa đổi quy định miễn thuế giá trị gia tăng, có cơ chế chính sách khuyến khích, ràng buộc các doanh nghiệp, người sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm; đẩy mạnh Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; tăng cường kiểm soát nguồn gốc xuất xứ; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng xuất khẩu trực tuyến thông qua khu vực biên giới.

Bộ Công Thương đề xuất Chính phủ có cơ chế ưu đãi về tín dụng, về thuế cho doanh nghiệp để có thể xây dựng được kho bãi, trung tâm logistics ở khu vực biên giới, và địa phương nên dành những quỹ đất hợp lý để hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng các kho ngoại quan cũng như các hạ tầng logistics để có thể đáp ứng được nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa của mình và nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài. 

Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm và chú trọng xây dựng thương hiệu, bao bì, nhãn mác, đạt được các tiêu chuẩn của các thị trường nhập khẩu. 

Nhận thức rõ vai trò của dịch vụ logistics trong việc góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp, trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành triển khai nhiều giải pháp để phát triển dịch vụ logistics giúp doanh nghiệp giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh và đạt được một số kết quả nhất định như trong báo cáo chúng tôi đã nêu. 

Tuy nhiên, hoạt động này còn một số hạn chế, đó là: (i) Nhận thức về vai trò, vị trí logistics còn khác nhau dẫn đến triển khai không đồng bộ; (ii) Một số quy định chồng chéo và chưa phù hợp; (iii) Cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông chưa được đầu tư xứng đáng. 

Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục trình Chính phủ Chiến lược phát triển logistics trong giai đoạn tới, ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ, bảo đảm kết nối trong nước và quốc tế. 

Thứ hai, phát triển dịch vụ logistics gắn liền với phát huy tối đa lợi thế về địa lý và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng.

Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế. 

Thứ tư, xây dựng đội ngũ nhân lực đủ sức đáp ứng yêu cầu của ngành này phát triển trong tương lai. Phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics xây dựng bộ chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh logistics cấp tỉnh. Chủ động đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực này. Thường xuyên cập nhật tình hình xuất nhập khẩu, thông quan hàng hóa và kịp thời khuyến cáo các địa phương, Hiệp hội chủ động ứng phó và điều hành, hạn chế tình trạng ùn ứ tại các cửa khẩu. Đẩy mạnh công tác xúc tiến phát triển thị trường, kết hợp giữa các doanh nghiệp logistics và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu.

Về câu hỏi của đại biểu Dương Khắc Mai về giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu bền vững trước mắt cũng như lâu dài, những giải pháp trước mắt để các doanh nghiệp khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thì chúng tôi đã báo cáo ở phần trên. Về lâu dài, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền để các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp hiểu đúng, hiểu rõ hơn những quy định của các hiệp định mà Việt Nam đã là thành viên để có thể khai thác, tận dụng cơ hội từ các hiệp định này. 

Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với cấp có thẩm quyền rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định cho phù hợp với các diễn biến thực tế và kinh nghiệm quốc tế. 

Thời gian tới, để hỗ trợ các doanh nghiệp tăng tỷ trọng xuất khẩu, sẽ hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất tạo nguồn hàng chất lượng cao, ổn định giá cả cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn, kết nối chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị cho doanh nghiệp trong nước để phát triển ngành này. 

Thứ ba, đa dạng hóa hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác các ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do và đẩy mạnh phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử. Tiếp tục đàm phán, ký kết các hiệp định liên kết kinh tế mới để khai mở thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. 

Cuối cùng, tăng cường hỗ trợ thông tin, cảnh báo và hướng dẫn doanh nghiệp ứng phó, bảo vệ lợi ích trong các vụ kiện phòng vệ thương mại ở nước ngoài.

Trả lời chất vấn

Đại biểu Lê Thị Song An - Đoàn ĐBQH Long An: Theo Quyết định số 816/QĐ-TTg ngày 7/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 có nhiệm vụ xây dựng và triển khai Chương trình thu hút đầu tư phát triển chuỗi cung ứng các sản phẩm chủ lực thủy sản, trái cây, lúa gạo; Chương trình thông tin, dự báo và phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực; Chương trình phát triển thương hiệu nông sản chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long gắn với ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, xây dựng liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ logistics hỗ trợ nông nghiệp,… Với trách nhiệm của mình, Bộ trưởng đã tham mưu Chính phủ triển khai thực hiện các nhiệm vụ này như thế nào? 

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - Đoàn ĐBQH Hải Dương: Xin Bộ trưởng cho biết giải pháp nào để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu đối với hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước để cân bằng tỷ trọng xuất khẩu, trong khi hiện nay phần lớn tỷ trọng tổng kim ngạch xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp FDI?

Đại biểu Tạ Văn Hạ - Đoàn ĐBQH Quảng Nam tranh luận: Tôi xin trao đổi về công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, bảo vệ người tiêu dùng trên thương mại điện tử. Có một thực tế hiện nay là tất cả những đơn hàng được thực hiện trên Zalo, Facebook,… đều được vận chuyển qua biên giới, chuyển phát nhanh, mở đơn hàng đi thẳng. Trong khi đó, vấn đề chế tài xử lý đối với sàn giao dịch thương mại điện tử chưa có. Đây là vấn đề thứ nhất mà tôi chưa thấy Bộ trưởng trao đổi đến.

Vấn đề thứ hai là hiện nay một số người kinh doanh, livestream bán hàng, giới thiệu sản phẩm ở những nơi là các thành phố lớn hoặc bên kia biên giới, nhưng hàng hoá sản phẩm lại đặt ở những nơi hẻo lánh, xa xôi, áp sát biên giới,… và được vận chuyển qua các đơn vị vận tải. Tuy nhiên hiện nay tại Luật Bưu chính viễn thông lại chưa có quy định bắt buộc về việc kiểm tra hàng hóa của doanh nghiệp bưu chính, nên việc xử lý vấn đề này gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, trong quá trình xử lý, không thể chỉ có ngành Công Thương được, mà cần có sự phối hợp của các bên, thậm chí là của chính các đơn vị sở hữu nền tảng đó lại không phải ở trong nước mà ở nước ngoài. 

Vậy giải pháp như thế nào để khắc phục triệt để tình trạng này và bảo vệ người tiêu dùng?

Đại biểu Đỗ Chí Nghĩa - Đoàn ĐBQH Phú Yên: Về việc livestream bán hàng trên một số mạng xã hội, ví dụ như Tiktok, doanh thu mỗi ngày có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng - một con số rất lớn. Vậy xin hỏi (i) với hình thức thương mại điện tử như vậy thì chúng ta làm thế nào để quản lý được chất lượng, bảo đảm được quyền lợi của khách hàng; và (ii) giá bán qua các livestream như vậy, đặc biệt là trường hợp doanh thu đạt trăm tỷ như trên thì rẻ hơn giá bán thông qua các đại lý đang gây bất ổn và hoang mang trên thị trường về hàng thật, hàng giả. Vậy các cơ quan quản lý, cụ thể là Bộ Công Thương, Tổng cục Quản lý thị trường quan điểm về vấn đề này như thế nào? Xử lý ra sao? Và chúng ta có những kinh nghiệm quốc tế gì trong quản lý vấn đề này.

Xin trao đổi thêm với Bộ trưởng rằng, Bộ trưởng đã trao đổi nhiều về vấn đề quản lý các sàn thương mại điện tử, nhưng đó là những sàn được định danh, có đăng ký thì quản lý tương đối dễ nhưng hiện nay các livestream của cá nhân bán hàng mới là vấn đề đáng lo, và các livestream cá nhân ấy mà doanh thu lên đến hàng trăm tỷ một ngày, một lần như vậy là vấn đề rất lớn chứ không phải nhỏ mà còn mang tính cá nhân nữa. Nếu như chúng ta đi theo giải pháp là xoá các trang cá nhân đó như Bộ trưởng đã trình bày theo báo cáo và trước Quốc hội thì chúng tôi cũng thấy rằng việc xoá là khó nhưng việc lập một trang mới là rất dễ dàng thì làm thế nào để có thể giải quyết dứt điểm vấn đề này? Và tôi có cảm giác nếu chúng ta không đi đúng hướng thì cơ quan quản lý sẽ hết sức vất vả và luôn luôn đuổi theo như một ma trận, vô cùng khó khăn, trong khi người tiêu dùng thì lãnh đủ và cơ quan thuế thì thất thu?

Xin Bộ trưởng trả lời thẳng vào câu hỏi với các livestream vừa rồi thì Bộ có biết không, nhận định livestream đó là thật hay ảo và bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp này như thế nào, có kinh nghiệp quốc tế gì mà Bộ đã tham khảo hay chưa? 

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Kính thưa Quốc hội,

Tôi xin trao đổi về tranh luận của đại biểu Tạ Văn Hạ, như tôi đã báo cáo, đối với hoạt động bán hàng trên môi trường thương mại điện tử nói chung, đặc biệt là livestream nói riêng, việc quản lý thật sự khó khăn và để quản lý được các hoạt động này không chỉ là trách nhiệm của ngành Công Thương mà còn trách nhiệm của rất nhiều ngành, ví dụ như ngành thông tin, truyền thông - quản lý hoạt động bề mặt, ngành tài chính - quản lý về thuế, hoặc ngành khác thì theo chức năng, nhiệm vụ được quy định theo quy định của Chính phủ.

Vì vậy, giải pháp tốt nhất là trước hết phải có sự phối hợp, đương nhiên là trong trường hợp này, Bộ Công Thương sẽ là cơ quan chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan để kiểm tra, kiểm soát và xử lý. Sử dụng lực lượng quản lý thị trường để phát hiện, đấu tranh làm rõ những hành vi sai phạm, nhất là trong việc tìm ra những địa điểm mà những đối tượng này tập kết hàng hoá, thường xuyên giao dịch, trao đổi, chia sẻ các dữ liệu, thông tin trong hoạt động quản lý của mình với các cơ quan chức năng để kịp thời xử lý những sai phạm, đặc biệt là chống thất thu thuế trong môi trường thương mại điện tử.

Bên cạnh đó, tôi nghĩ là, vì hoạt động này biến hoá khôn lường nên rõ ràng là các quy định pháp luật của chúng ta phải tiếp tục được rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đây là lĩnh vực mới, không chỉ với Việt Nam, mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều gặp phải. Đối với chúng ta, như tôi đã báo cáo là thương mại điện tử phát triển rất mạnh 20-25%/năm và quy mô thương mại bây giờ là 21 tỷ USD, trong tương lai, với tốc độ này thì còn phát triển mạnh hơn nữa. Vì vậy, rõ ràng là cơ chế, chính sách hiện nay của chúng ta phải tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện.

Ngoài ra, cần phát huy vai trò của hệ thống chính trị của chúng ta, việc mua bán, giao dịch cuối cùng cũng không thể lọt được lưới trời, là sự phát hiện của người dân thông qua các tổ chức, tôi nghĩ rằng, phát huy những vai trò như vậy thì sẽ giải quyết được.

Cuối cùng, vai trò quản lý nhà nước của chính quyền địa phương trong việc xem xét, xử lý ban đầu những xung đột về lợi ích có thể xảy ra trong lĩnh vực này.

Trong trường hợp vi phạm mà chúng ta chứng minh được là họ vi phạm pháp luật thì đương nhiên việc xóa vĩnh viễn trang này, hoặc yêu cầu các chủ phòng livestream sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật bởi những hành vi của mình thì chắc chắn sẽ từng bước giảm được tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

Về câu hỏi chất vấn của Đại biểu Chính Nghĩa cũng vậy, tôi nghĩ rằng, những trường hợp phát hiện vi phạm như thế này, chúng tôi hoàn toàn có thể hoàn tất hồ sơ để chuyển về cơ quan chức năng xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật. Còn vấn đề làm thế nào để quản lý được hoạt động livestream thì như tôi đã báo cáo ở phần trên, kết hợp trong phần giải trình ý kiến của Đại biểu Tạ Văn Hạ, rõ ràng phải phối kết hợp giữa các lực lượng chức năng trong việc này, rà soát lại các quy định của pháp luật, làm tốt công tác truyền thông để người tiêu dùng nhận thức được và tránh được những hiện tượng như vậy.

Trả lời chất vấn

Trở lại câu hỏi của Đại biểu Sỹ Huân - Đoàn Bắc Kạn về khâu chế biến nông, lâm, thủy sản. Báo cáo với đại biểu, vai trò của cơ giới hoá để nâng cao giá trị chế biến nông lâm, thủy sản, phát triển nông nghiệp, nông thôn thì được khẳng định trên thực tế trong những năm vừa qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay.

Trên thực tế, chúng ta đã thu được rất nhiều kết quả trong lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của mình. Thời gian vừa qua, Bộ đã áp dụng rất nhiều giải pháp để thực hiện được nhiệm vụ này, đó là:

Thứ nhất, tham mưu để ban hành Nghị định số 32/2024/NĐ-CP thay thế Nghị định số 68/2017/NĐ-CP về quản lý khu công nghiệp để góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Thứ hai, triển khai các chương trình ưu đãi, hỗ trợ để phát triển công việc địa phương, các mô hình trình diễn và hỗ trợ công nghiệp nông thôn, hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí, doanh nghiệp công nghiệp địa phương học tập kinh nghiệm để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào các khâu của quá trình sản xuất, triển khai các nhiệm vụ được giao trong chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình khuyến công quốc gia,…

Những kết quả mang lại trong thời gian qua được chứng minh là:

(i) Cơ khí hoá nông nghiệp: trên 90% máy xay sát lúa đánh bóng gạo và máy sấy là do các doanh nghiệp trong nước sản xuất, chế tạo và thậm chí còn được xuất khẩu đi nước ngoài.

(ii) Máy móc, dây chuyền chế biến, bảo quản nông sản đã góp phần tăng giá trị nông sản bình quân từ 8-10%/năm.

(iii) Các cụm công nghiệp đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động việc làm ở khu vực nông thôn.

Mặc dù vậy, công nghiệp phục vụ nông nghiệp vẫn tồn tại những hạn chế như: vấn đề tích tụ đất đai trong nông nghiệp, sản phẩm đưa vào chế biến chưa đồng nhất do quy mô còn nhỏ và chất lượng không ổn định, không đồng đều.

Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả chính sách khuyến công và phục vụ cho mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, khuyến khích sản xuất nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn, tạo cơ sở để ứng dụng rộng rãi cơ giới hoá nông nghiệp, tạo vùng nguyên liệu và điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nông nghiệp nông thôn.

Thứ ba, chú trọng các khâu nghiên cứu và phát triển ứng dụng công nghệ mới vào các ngành công nghệ thực phẩm để tạo ra những sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Tập trung phát triển, chế biến sâu các sản phẩm nông sản chủ lực và sản phẩm nông nghiệp có lợi thế thành các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Điều chỉnh chính sách hỗ trợ xây dựng cơ chế hoạt động của các khu công nghiệp đóng vai trò hạt nhân, thúc đẩy liên kết để hướng tới xây dựng các khu công nghiệp phục vụ nông nghiệp quy mô lớn, như là một số doanh nghiệp của THACO đang làm ở Thái Bình và Quảng Nam.

Đối với khu vực vùng sâu, vùng xa để làm sao mà thu hút được thì theo tôi, quan trọng nhất bây giờ phải là vùng nguyên liệu, để có được vùng nguyên liệu thì trách nhiệm trước hết phải là cấp ủy chính quyền địa phương. Chúng ta phải quy hoạch được vùng trồng, vùng nuôi và phải áp dụng được những công nghệ mới trong quá trình sản xuất, các khâu của quá trình sản xuất để bảo đảm sản phẩm của chúng ta là sản phẩm xanh, sạch và bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng.

Thứ ba, phải nắm bắt được tín hiệu thị trường, sản xuất và cung ứng ra thị trường những cái mà thị trường cần, chứ không phải là những cái mà mình có.

Thứ tư, để thu hút được các doanh nghiệp đến đầu tư và hưởng những cơ chế chính sách của Nhà nước hiện hành trong lĩnh vực này, theo tôi, ở địa phương cũng cần dành nguồn lực, trước hết là về đất đai (ở những vị trí thuận lợi), nguồn lực để đầu tư vào hạ tầng, sẵn sàng thu hút các nhà đầu tư này vào sản xuất.

Ngoài ra, các Bộ, ngành chức năng, trong đó có Bộ Công Thương chắc chắn sẽ phải nghiên cứu để tiếp tục rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách đủ sức hấp dẫn và khả thi để có thể thu hút được các nhà đầu tư vào những khu vực này. Tôi rất đồng tình với việc đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng còn có nhiều khó khăn thì lại càng cần có những cơ chế, chính sách đặc thù để có thể thu hút được các dự án này vào đây.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Trả lời câu hỏi của Đại biểu Việt Nga về khai thác các thị trường FDI của chúng ta, chúng tôi thấy rằng đại biểu nêu rất đúng.

Các doanh nghiệp FDI hiện nay đang chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của nước ta, khoảng trên dưới 73%. Thực tế này có nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất là doanh nghiệp FDI có thế mạnh về vốn, công nghệ, thương hiệu và mạng lưới phân phối từ nhiều năm trước đây. Trong khi đó các doanh nghiệp của chúng ta nguồn lực thì hạn chế, bên cạnh đó cũng mới chỉ đang từng bước thâm nhập vào thị trường.

Thứ hai là các doanh nghiệp FDI sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghiệp công nghệ cao nên giá trị luôn vượt trội so với nhóm hàng nông sản của các doanh nghiệp trong nước chúng ta. Tuy nhiên, việc các doanh nghiệp FDI xuất khẩu cũng là phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn đầu, bởi vì chỉ có thu hút đầu tư doanh nghiệp FDI thì chúng ta mới có điều kiện để hội nhập, để học tập kinh nghiệm về quản trị, chuyển giao về công nghệ cũng như là tiếp cận với thị trường. Như vậy, cũng phải thừa nhận vai trò đóng góp của họ.

Mặc dù vậy, mục tiêu của chúng ta hội nhập không phải chỉ là đo đếm bằng các Hiệp định thương mại tự do hay là đo đếm bằng các dự án mà nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư, kể cả là đo đếm bằng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên hàng năm mà thước đo ở đây phải đo bằng sức khoẻ của nền kinh tế đất nước, bằng sự hội nhập của chính các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Đây là mục tiêu lớn.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng doanh nghiệp nội của chúng ta trong thời gian qua cũng đã vươn lên hội nhập khá tốt nhờ có sự tiếp cận và liên kết với các doanh nghiệp này. Bằng chứng là năm 2023 tỷ trọng xuất khẩu trong các doanh nghiệp này thì khu vực doanh nghiệp nội giảm thấp hơn so với các doanh nghiệp ngoại.

5 tháng đầu năm nay, giá trị xuất khẩu tuyệt đối của các doanh nghiệp nội tăng gấp 2 lần, khoảng 24%, trong khi đó, mức tăng của doanh nghiệp ngoại chỉ là 12%. Điều đó chứng tỏ là các doanh nghiệp chúng ta cũng đang từng bước vươn lên để chiếm lĩnh thị trường này, khai thác được những lợi thế mà Việt Nam đang có, đó là thành viên của các Hiệp định thương mại tự do, được hưởng những cơ chế ưu đãi từ các hiệp định mang lại.

Thời gian tới, để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tăng được tỷ trọng xuất khẩu, chúng tôi chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tạo nguồn hàng chất lượng cao, ổn định để cạnh tranh với hàng của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Thúc đẩy các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn cần phải kết nối chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị cho doanh nghiệp trong nước để phát triển, nhất là những ngành công nghiệp hỗ trợ.

Thứ hai, đa dạng hóa các hoạt động thương mại, xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác ưu đãi, các Hiệp định FTA, phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử, tiếp tục thúc đẩy đàm phán, ký kết các hiệp định mới ở những khu vực còn nhiều tiềm năng. Hỗ trợ thông tin, cảnh báo, hướng dẫn doanh nghiệp có thể ứng phó với những vụ kiện về phòng vệ thương mại của nước ngoài một cách hiệu quả.

Một ý nữa là xây dựng thương hiệu cho nông sản. Thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tập trung hỗ trợ cho việc phát triển thương hiệu nông sản thực phẩm ở 3 cấp độ.

Thứ nhất, thương hiệu ngành ở quy mô cấp toàn quốc, trong Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại.

Thứ hai, thương hiệu sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận ở quy mô cấp địa phương.

Thứ ba, thương hiệu sản phẩm quy mô cấp doanh nghiệp trong Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam.

Đồng thời, Bộ cũng đang phối hợp với các Bộ có liên quan triển khai kế hoạch phối hợp giữa 3 Bộ: Bộ Công Thương, Bộ Khoa học - Công nghệ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ra nước ngoài.

Các hoạt động hỗ trợ nêu trên đã góp phần đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản đứng thứ 15 trên thế giới và đứng thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á.

Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục nỗ lực để nâng cao nhận thức, vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc xây dựng, phát triển các thương hiệu trong sản xuất kinh doanh và đầu tư, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.

Hai là, tổ chức các chương trình đào tạo, tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, kỹ năng và vấn đề cần lưu ý trong việc xây dựng, phát triển thương hiệu.

Ba là, tư vấn đổi mới, cải tiến thiết kế nhằm đáp ứng thị hiếu, yêu cầu của thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.

Bốn là, tư vấn hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm xuất khẩu tiềm năng ở trong và ngoài nước.

Năm là, xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình tuyên truyền, quảng bá hình ảnh trong và ngoài nước đối với từng sản phẩm nông sản và thực phẩm chế biến.

Chúng tôi cũng rất đồng tình với ý kiến của Bộ trưởng Lê Minh Hoan là tiến tới phải xây dựng thương hiệu sản phẩm của quốc gia chứ không chỉ dừng lại là sản phẩm riêng lẻ của một doanh nghiệp hay là của một địa phương nào đó. Và trên thực tế, chúng ta mất rất nhiều tiền của và công sức trong việc xây dựng thương hiệu này, nhưng nó rất nhanh chóng bị tan biến bởi những cú sốc của thị trường, trong khi chúng ta chưa biết hợp lực với nhau để có thể xây dựng thương hiệu trở thành thương hiệu quốc gia và để có thể khai thác được những tiềm năng, lợi thế mà chúng ta đang có.

Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong xây dựng nội dung và kế hoạch, chiến lược tuyên truyền, quảng bá, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và xây dựng các sản phẩm truyền thông nhằm tăng cường nhận biết sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể.

Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng, phát triển, quảng bá thương hiệu sản phẩm nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại thị trường cả trong nước và quốc tế. Thị trường 100 triệu dân của chúng ta thật sự là hấp dẫn đối với các nhà phân phối và trên thực tế thì chúng ta chưa thật sự quan tâm đến thị trường này.

Đại biểu Trần Thị Thanh Lam - Đoàn ĐBQH Bến Tre: Thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng chưa được thừa nhận ở Việt Nam nhưng lại được bán tràn lan trên thị trường, nhất là qua môi trường không gian mạng đến mức đáng báo động, gây ảnh hưởng đến sức khỏe đến người dân, nhất là giới trẻ. Như vậy, có thể khẳng định rằng các sản phẩm thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng trên thị trường hiện nay là hàng nhập lậu, chưa rõ nguồn gốc xuất xứ. Xin Bộ trưởng cho biết trách nhiệm quản lý nhà nước trong quản lý thị trường và cam kết của Bộ trưởng về vấn đề này.

Đại biểu Nguyễn Văn An - Đoàn ĐBQH Thái Bình: Ở Việt Nam ưu đãi nhiều chính sách để khuyến khích nhằm đầu tư phát triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp cơ khí, nhưng kết quả cũng còn hạn chế. Đề nghị Bộ trưởng đánh giá các kết quả triển khai các chính sách này trong thời gian qua. Đồng thời, cũng xin thông tin thêm là báo chí cũng có phản ánh tình trạng cán bộ của Bộ Công Thương cũng gây nhũng nhiễu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xem xét các hồ sơ xin hưởng ưu đãi theo chính sách của Chính phủ. Xin Bộ trưởng cho biết phản ánh trên có đúng không và quan điểm của Bộ trưởng về các vấn đề này như thé nào?

Đại biểu Hà Hồng Hạnh - Đoàn ĐBQH Khánh Hoà: Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ trong phục vụ chế biến nông, lâm, thủy sản của nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu trong chế biến nông sản để nâng cao giá trị và ổn định thị trường tiêu thụ. Các sản phẩm của ngành cơ khí trong phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn chưa chiếm lĩnh được thị trường, trong khi máy móc, thiết bị trong sản xuất nông nghiệp vẫn nhập khẩu từ nước ngoài. Xin Bộ trưởng cho biết định hướng của ngành về vấn đề này trong thời gian tới như thế nào?

Đại biểu Nguyễn Quang Huân - Đoàn ĐBQH Bình Dương: Công nghiệp phụ trợ gần đây được nhắc đến với tần suất ngày 1 nhiều hơn và dường như đây là một hướng đi đúng đắn để tái cơ cấu, phát triển công nghiệp cũng như là tăng trưởng chất lượng cao trong giai đoạn mới, đồng thời tạo ra hệ sinh thái liên kết chặt chẽ các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, đến nay, chúng ta chưa có một chính sách phát triển toàn diện và bao trùm về công nghiệp giống như các nền kinh tế phát triển trước chúng ta họ đã làm. Vậy xin hỏi Bộ trưởng, sắp tới Bộ có kế hoạch gì để đưa ra chính sách phát triển công nghiệp toàn diện cho Việt hay không?

Đại biểu Lê Đào An Xuân - Đoàn ĐBQH Phú Yên: Cử tri rất ghi nhận những nỗ lực của Bộ Công Thương trong tham mưu Chính phủ ký kết tham gia các Hiệp định thương mại tự do, nhất là những Hiệp định thương mại thế hệ mới. Đây được xem là cơ hội lớn để hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới nhưng cũng đòi hỏi hàng hoá phải đạt được những yêu cầu khắt khe hơn. Vừa rồi, Bộ trưởng cũng có nêu một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung, chúng tôi cũng rất mong muốn được nghe Bộ trưởng nói thêm về các giải pháp căn cơ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại địa phương và làm thế nào để đảm bảo được các tiêu chuẩn hàng hoá, nhất là các tiêu chuẩn về môi trường?

Đại biểu Nguyễn Đại Thắng - Đoàn ĐBQH Hưng Yên: Hiện nay, chi phí logistics còn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng giá thành, điều đó ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Đề nghị Bộ trưởng cho biết những khó khăn trong phát triển dịch vụ logistics cũng như giảm chi phí logistics tại Việt Nam và định hướng giải pháp của Bộ trong thời gian tới khắc phục như thế nào để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả hơn trong thời gian tới?

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Kính thưa Quốc hội,

Trước hết, tôi xin trả lời câu hỏi của Đại biểu Thanh Lam về đề nghị nêu những giải pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước tình trạng thuốc lá điện tử tràn lan.

Thưa Quốc hội, kinh doanh thuốc lá là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và được điều chỉnh bởi Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá và Nghị định 67 hướng dẫn thực hiện Luật này. Sản phẩm thuốc lá thế hệ mới bao gồm cả thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng chưa được định nghĩa cụ thể trong Luật hiện hành. Do vậy, có thể nói thời gian vừa qua chúng ta đang tồn tại một khoảng trống pháp lý trong công tác quản lý nhà nước đối với loại hình sản phẩm này.

Trên thực tế, mặc dù chưa có chính sách quản lý nhưng Bộ Công Thương với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước thì chưa cấp phép kinh doanh và đăng ký thông báo cho website thương mại điện tử kinh doanh thuốc lá thế hệ mới cho bất kể doanh nghiệp nào. Đồng thời, Bộ cũng đã chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường địa phương tăng cường kiểm tra, đấu tranh xử lý rất nhiều vụ việc vi phạm với số lượng rất lớn trong thời gian vừa qua.

Điển hình như, quản lý thị trường Hà Nam thu giữ trên 108.000 sản phẩm hay là quản lý thị trường Bắc Ninh thu giữ 103.000 sản phẩm và tại Hà Nội cũng thu giữ hơn 11.000 sản phẩm. Điều đó chứng tỏ rằng tình trạng vi phạm rất nghiêm trọng.

Và để khắc phục tình trạng trên, Bộ Công Thương đề xuất và sẽ quyết liệt triển khai một số nhiệm vụ cụ thể:

Trước hết, cùng các Bộ, ngành hữu quan do Bộ Y tế chủ trì sẽ tham mưu các cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách quản lý chặt chẽ, rõ ràng đối với thuốc lá điện tử để khắc phục khoảng trống về pháp lý trong lĩnh vực này, tạo cơ sở để các ban, ngành, địa phương thực hiện một cách đồng bộ, có căn cứ pháp luật.

Đồng thời cũng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương cần phải dành nguồn lực thoả đáng để thực hiện hiệu quả lệnh phòng, chống tác hại của thuốc lá nói chung và thuốc lá điện tử nói riêng.

Thứ hai, tiếp tục chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường phối hợp cơ quan chức năng địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, như: Ban Chỉ đạo 389, Hải quan và Biên phòng, chính quyền các địa phương thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng tại Công điện số 47 ngày 13/5/2024 để quản lý tốt thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng đang lan tràn trên nhiều nơi.

Ngoài ra, cũng cần lưu ý là các vi phạm đối với thuốc lá truyền thống hay là thuốc lá thế hệ mới hiện nay thì chủ yếu là do nhập lậu. Do vậy, lực lượng chức năng cũng cần ngăn chặn ngay từ biên giới, còn khi vào đất liền rồi thì rõ ràng việc quản lý cũng là cả một câu chuyện khó khăn.

Thứ ba, phối hợp chặt chẽ Bộ Y tế, Bộ Giáo dục, Bộ Thông tin Truyền thông tăng cường công tác thông tin, giáo dục truyền thông về tác hại của thuốc lá điện tử, đặc biệt là đối với đối tượng yếu thế, đối tượng là trẻ em, học sinh, có thể xem xét đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường về tác hại của thuốc lá nói chung là thuốc lá thế hệ mới nói riêng, những quy định cấm của pháp luật, những chế tài xử lý, đặc biệt là cần phải huy động được sự tham gia của các lực lượng xã hội như là đoàn thanh niên, đội thiếu niên, gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư trong việc tuyên truyền, giáo dục về tác hại thuốc lá và quản lý con em mình.

Cuối cùng, đề cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Bởi lẽ không có điều gì là chính quyền cơ sở không nắm được, không biết được và không có trách nhiệm trong việc quản lý.

Trên đây là những giải pháp cơ bản để quản lý thực trạng thuốc lá điện tử thế hệ mới đang tràn lan hiện nay.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên

Về câu hỏi của Đại biểu Nguyễn Văn An, nhận thức rõ vai trò của công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, thời gian vừa qua, Bộ đã tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành nhiều quy định và triển khai thực hiện các giải pháp và đã đạt được một số kết quả, cụ thể:

Lĩnh vực chế biến, chế tạo, trong đó có công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp cơ khí đã khẳng định được vai trò “đầu tàu” cho tăng trưởng sản xuất công nghiệp. Tỷ lệ nội địa hoá được nâng cao trong nhiều ngành như dệt may, da giày,… đạt tới 50% và cơ khí đạt tới hơn 30%. Công nghiệp hỗ trợ từng bước nâng cao trình độ tổ chức sản xuất và nhiều doanh nghiệp đã trở thành nhà cung ứng cho các tập đoàn đa quốc gia tham gia vào lợi ích sản xuất, cung ứng toàn cầu.

Sự phát triển của lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đã góp phần thu hút được các tập đoàn lớn của thế giới, mở rộng nhà máy và hình thành các trung tâm R&D ở Việt Nam.

Về công nghiệp cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, có trên 90% số máy trong nông nghiệp, nhất là máy xay xát lúa và đánh bóng gạo, máy sấy do các doanh nghiệp trong nước sản xuất và cung ứng, đồng thời cũng đã xuất khẩu đi rất nhiều thị trường khu vực ASEAN, châu Mỹ và châu Phi.

Ngoài ra, còn nhiều dây chuyền thiết bị trong việc chế biến các sản phẩm cây có hạt cũng có thương hiệu và một số sản phẩm đang được cung ứng cho các nhà máy cơ khí, nhất là sản xuất ô tô, trong Vinfast như THACO,…

Tuy nhiên, việc triển khai các chính sách ưu đãi như tôi vừa nêu cũng còn rất nhiều hạn chế.

Thứ nhất, nguồn lực đầu tư của nhà nước, từ Trung ương đến địa phương vừa ít vừa khó tiếp cận, lại bị chồng chéo lên nhau. Một số điều kiện để hưởng ưu đãi trong quy định khá ngặt nghèo, chưa thực sự phù hợp, khiến cho các doanh nghiệp rất khó để tiếp cận, đáp ứng được yêu cầu để hưởng chính sách ưu đãi.

Thứ hai, chính sách thu hút FDI của chúng ta chưa ràng buộc, cũng chưa khuyến khích được các doanh nghiệp FDI tăng tính lan toả cho các doanh nghiệp ở trong nước.

Thứ ba, các doanh nghiệp Việt chưa quan tâm cũng chưa chủ động tìm hiểu, nắm bắt thông tin về các chính sách ưu đãi, hỗ trợ. Thực ra, để đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp cơ khí này cần rất nhiều tiền và cũng cần phải có trình độ công nghệ công nghệ và kinh nghiệm nhất định thì mới dám bước vào một “xới” mà có thể nói là các nước, nhất là những nước phát triển họ đã đi trước chúng ta rất xa.

Việc phổ biến, tuyên truyền các chính sách ưu đãi với cộng đồng doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, chưa được thực hiện thường xuyên, phạm vi chưa rộng.

Việc phối hợp thực hiện chính sách giữa Trung ương, địa phương chưa đạt hiệu quả. Ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí khó thu hút đầu tư, bởi tỉ suất lợi nhuận thấp, rào cản để gia nhập thị trường khó khăn. Thực ra dung lượng thị trường của Việt Nam thì không lớn nhưng để các doanh nghiệp bước ra khỏi Việt Nam, vươn ra thị trường nước ngoài trong lĩnh vực cơ khí và cơ khí chế tạo thì đây là một thách thức, vì vậy giai đoạn này còn rất hạn chế.

Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục tham mưu để hoàn thiện đồng bộ về chính sách, trong đó có nghiên cứu xây dựng Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm, bao gồm những ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, chế biến, điện tử, hoá chất và năng lượng. Đây là những ngành mà ta coi là nền tảng trong ngành công nghiệp của Việt Nam, cũng là động lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tăng cường phân bổ nguồn lực cả Trung ương, địa phương để tập trung phát triển ngành này. Triển khai hiệu quả chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác phổ biến, tuyên tuyền chính sách trên phạm vi rộng và tăng cường chương trình hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng hỗ trợ các doanh nghiệp và đặc biệt là phát huy hiệu quả của các trường Đại học, Cao đẳng thuộc ngành Công Thương và một số trường nghề trong ngành lao động cũng như ngành giáo dục.

Về việc xử lý thông tin về cán bộ nhũng nhiễu, thời gian qua, công tác giải quyết thủ tục hành chính, xác nhận ưu đãi cũng đã được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đồng thời, Bộ cũng quan tâm, đẩy mạnh chuyển đổi số và cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hiện đại, điều hành thực thi pháp luật và cũng rất quyết liệt trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí và từng bước xây dựng bộ máy hoạt động liêm chính và hoạt động hiệu quả phục vụ người dân.

Tăng cường tiếp nhận và trả kết quả các thủ tục hành chính trên môi trường số ở cấp độ 4. Như tôi báo cáo, 99% các thủ tục hành chính của Bộ Công Thương đã áp dụng toàn trình ở cấp độ 4 theo chỉ đạo của Chính phủ, nên đã cải thiện một cách đáng kể trong việc giải quyết thủ tục này.

Tuy nhiên, đối với những thông tin mà báo chí nêu ra thì Bộ Công Thương đã và đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan, cụ thể là Cục Công nghiệp và cá nhân đang có quá trình kiểm điểm và xem xét xử lý trách nhiệm theo quy định. Chúng tôi cam kết không bao che và không giảm nhẹ trách nhiệm của đối tượng vi phạm.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên

Về câu hỏi của Đại biểu Hồng Hạnh, thời gian qua, Bộ đã tích cực tham mưu cho cấp có thẩm quyền về cơ chế, chính sách cơ khí hoá trong nông nghiệp, đã sản xuất hàng loạt các máy gieo trồng và thu hoạch, trên 90% số máy xay xát lúa và đánh bóng gạo như đã báo cáo là chúng ta đã sản xuất được phục vụ cho nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu đi rất nhiều nước trên thế giới.

Thứ hai là công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm cũng đã bước đầu phát triển các dây chuyền thiết bị nông sản như cà phê, hạt điều do doanh nghiệp trong nước thiết kế chế tạo cũng đã được sử dụng trong nước và xuất đi nhiều nơi, góp phần tăng giá trị xuất khẩu nông sản và giá trị tăng bình quân mỗi năm từ 8-10%.

Mặc dù vậy, vẫn còn những hạn chế như mức độ trang bị động lực phục vụ nông nghiệp của chúng ta còn thấp, phần lớn các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản của chúng ta chế biến được xuất khẩu là ở dạng thô. Nguyên nhân của hạn chế này có thể thấy rằng, ngoài lúa, việc tích tụ đất đai trong sản xuất nông nghiệp, đối với các loại cây trông chưa cao, diện tích canh tác còn phân tán, nhỏ lẻ, khó áp dụng cơ giới hoá. Đây là một cản trở lớn để chúng ta thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như đáp ứng tiêu chuẩn về hàng hoá để xuất khẩu.

Bên cạnh đó, khu canh tác, thu hoạch chưa cung cấp đủ nguyên liệu để hình thành các mô hình sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, đồng bộ từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ. Như vậy, vùng trồng thì rất nhiều nhưng quy mô, sản phẩm thì nhỏ, chất lượng thì không ổn định và thậm chí là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thiếu chuyên nghiệp, vi phạm những quy định, cam kết của chúng ta với thế giới. Vừa rồi, báo chí cũng nêu, ví dụ trong xuất khẩu gạo, tự ý giảm giá của mình thấp hơn so với giá của các đối tác nước ngoài có cùng chủng loại hàng hoá, thậm chí là thấp hơn áo với giá thành trong nước, đó là thể hiện sự không chuyên nghiệp, chỉ lo giải quyết cho cá nhân mà không nghĩ đến thương hiệu quốc gia, không nghĩ đến trách nhiệm đối với cộng đồng. Đó là hạn chế mà chúng ta phải xem xét khắc phục.

Thời gian tới, Bộ sẽ tham mưu Chính phủ có cơ chế để tiếp tục khuyến khích tích tụ đất trong nông nghiệp theo pháp luật về đất đai và các quy định liên quan để có thể tạo ra những vùng trồng, vùng nuôi quy mô lớn để có thể đủ khối lượng sản phẩm xuất khẩu.

Thứ hai, áp dụng những công nghệ mới trong quá trình sản xuất để đảm bảo các tiêu chuẩn sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu của các thị trường. Nâng cao hiệu quả chính sách khuyến công, công nghiệp nông thôn để hỗ trợ đầu tư phát triển các cụm công nghiệp, khu công nghiệp chuyên biệt để phục vụ cho quá trình chuyển dịch trong khu vực nông nghiệp của chúng ta.

Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cơ chế ưu đãi để hỗ trợ các doanh nghiệp cơ khí chế tạo ra những sản phẩm máy móc, linh kiện và sản phẩm hỗ trợ nông nghiệp. Đương nhiên, trong giai đoạn đầu nếu chúng ta chưa làm được những việc này thì chắc chắn phải nhập thiết bị máy móc của thế giới để có thể nâng cao năng suất, chất lượng của sản phẩm và đủ sức đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Về câu hỏi của đại biểu An Xuân,... chúng tôi nghĩ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược và chúng ta là một trong những quốc gia được thế giới đánh giá là hội nhập rất nhanh, minh chứng bằng sự tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do với 90% khu vực GDP của thế giới và hầu hết các nền kinh tế lớn.

Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả các FTA này, suy cho cùng vẫn phải là con người, phải có con người hiểu biết, có kỹ năng, có nghiệp vụ thực thi thì lợi ích mới thuộc về chúng ta, nếu không, như giai đoạn vừa qua rõ ràng là cùng với sự yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập thì nguồn nhân lực giúp chúng ta trong lĩnh vực này, từ khâu đàm phán đến khâu triển khai thực thi các Hiệp định đều là rất là mỏng, đó là một lỗ hổng của chúng ta.

Vì vậy, trong thời gian tới, tôi đề nghị mỗi ngành, mỗi địa phương đều phải cso kế hoạch, chiến lược để tuyển dụng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ của mình, thạo về kỹ năng đàm phán và hiểu được các quy định của pháp luật nói chung, nhất là pháp luật quốc tế cũng như các Hiệp định thương mại tự do. Ở đây có rất nhiều ngành có liên quan đến câu chuyện phải đàm phán, ký kết, và sau đàm phán ký kết là triển khai thực hiện, nếu chúng ta không hiểu được thì sẽ rất khó để thực hiện.

Bên cạnh đó, tôi cũng đề nghị các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực hành giáo dục cũng cần có kế hoạch để mở những mã ngành, có chương trình đào tạo, chương trình tuyển sinh, chương trình đào tạo để có được đội ngũ nhân lực đủ trình độ, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của chúng ta, nếu không có được nguồn này là khó. 

Ngoài ra, đối với trách nhiệm của ngành, Bộ sẽ tiếp tục xây dựng những chương trình để bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ của các ngành, các địa phương tham gia hội nhập. Chúng tôi có tài liệu đăng trên cổng thông tin điện tử, có tài liệu in và tổ chức các lớp tập huấn định kỳ hàng quý và đặc biệt là tổ chức giao ban với các Thương vụ nước ngoài để cập nhật những thông tin về những chính sách mới của các nước sở tại. 

Đồng thời, để hàng hóa có chất lượng tốt cho xuất khẩu thì một trong những yêu cầu quan trọng nhất là cần phải có quy hoạch vùng, nhất là vùng sản xuất, vùng trồng, vùng nuôi. Cùng với đó, phải áp dụng công nghệ trong quá trình; phải hợp tác với các đối tác của nước ngoài, nhất là ở những giai đoạn đầu để chúng ta có thể tiếp cận được với các thị trường cũng như là tiếp cận được tiêu chuẩn trong quá trình sản xuất, chế biến sản phẩm để xuất khẩu.

Ý kiến cuối cùng của Đại biểu Quang Huân là làm thế nào để có một chính sách toàn diện trong phát triển công nghiệp, chúng tôi nghĩ rằng, trong thời gian tới, ngành Công Thương sẽ hoàn thiện, tiếp tục tham mưu để  hoàn thiện thể chế mà điển hình là đang tích cực hoàn thiện Dự thảo Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm, chú trọng phát triển công nghiệp theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Để phát triển toàn diện ngành công nghiệp Việt Nam, đầu tiên, phải tham mưu để ban hành kết luận phát triển công nghiệp trọng điểm, từ ngành công nghiệp trọng điểm này sẽ chi phối đến các ngành khác. 

Thứ hai, tận dụng tối đa thời kỳ, cơ cấu dân số vàng và khai thác triệt để các thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng.

Thứ ba, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là một bước đột phá. 

Thứ tư, gắn kết triển khai chính sách công nghiệp giữa Trung ương, địa phương, trong đó đặc biệt phát huy vai trò của các địa phương, nhất là những địa phương là động lực trong kinh tế của đất nước.

Thứ năm, bảo vệ và mở rộng thị trường trong nước, khai thác tối đa thị trường xuất khẩu từ các Hiệp định thương mại tự do.

Cuối cùng, tập trung hỗ trợ hệ thống doanh nghiệp công nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp lớn, có tiềm năng và hệ thống doanh nghiệp nhỏ đang chiếm một tỷ trọng lớn để có thể cùng tham gia hội nhập và khai thác những lợi thế này.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc trả lời:

Kính thưa Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,

Kính thưa Quốc hội, 

Thực hiện Chỉ thị số 18/CT-TTg (ngày 30/5/2023) của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã chỉ đạo quyết liệt trong quá trình thực hiện việc thu thuế của sàn thương mại điện tử. Bộ Tài chính cũng đã tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn người nộp thuế và thực hiện mở cổng thông tin điện tử của sàn thương mại điện tử xuyên biên giới.

Trong công tác phối hợp, Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp một cách quyết liệt với các Bộ, ngành như Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Công an, thể hiện qua việc đã kết nối cơ sở dữ liệu dân cư bằng 71,37% với 663.157 lượt kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư của Bộ Công an quản lý; chia sẻ với Bộ Công Thương 929 sàn thương mại điện tử; đã kiểm tra, đối chiếu 361 sàn thương mại điện tử để thực hiện kết nối và quản lý doanh thu; đối với Ngân hàng Nhà nước đã cung cấp 144 triệu tài khoản, trong đó khoảng 10 triệu tài khoản của các tổ chức, còn lại 134 triệu tài khoản của cá nhân ở 96 ngân hàng.

Kết quả, năm 2022 đã thu được 83 nghìn tỷ (đồng) và năm 2023 thu được 97 nghìn tỷ (đồng); 5 tháng đầu năm 2024 đã thu được 50 nghìn tỷ đồng. 

Đã có 96 nhà cung cấp nước ngoài, tức là các tập đoàn công nghệ nước ngoài như Facebook, Google, Microsoft, Tiktok,… thực hiện đăng ký và nộp thuế trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính về sàn thương mại xuyên biên giới; nộp được 15,6 nghìn tỷ đồng về thuế thương mại điện tử.

Và sắp tới chúng tôi sẽ đẩy mạnh thực hiện một cách đồng bộ đối với việc thu thuế trên sàn thương mại điện tử cũng như đối với giao dịch ở trên môi trường điện tử, trọng tâm là tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.

Chúng tôi cũng đã có công văn đề nghị các tỉnh chỉ đạo cơ quan thuế và hỗ trợ thực hiện thu thuế trên sàn thương mại điện tử để đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. 

Đối với vấn đề thứ hai mà đại biểu quan tâm là về xuất nhập khẩu, chúng tôi đã chỉ đạo Tổng cục Hải quan tập trung thực hiện hải quan thông minh; thực hiện thủ tục hải quan một cách tự động bằng điện tử 24/7, đẩy mạnh thanh toán điện tử 100%, kết nối trao đổi thông tin với 19 ngân hàng thương mại và nộp thuế qua điện tử; tham gia thực hiện chống buôn lậu và thông quan một cách thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. 

Thế thì hiện nay hệ thống công nghệ thông tin như Bộ trưởng Diên nói thì chúng tôi phải tách ra, chúng tôi hiện nay có hệ thống thông tin riêng, để sử dụng hệ thống này thì chúng tôi phải đào tạo cán bộ hải quan 6 tháng về công nghệ thông tin. Như vậy chúng tôi đã đào tạo trên 10.000 cán bộ công nghệ thông tin để thực hiện vấn đề quản lý theo hình thức điện tử để triển khai thông quan.

Năm 2023, chúng ta xuất nhập khẩu được 683 tỷ USD, trong đó xuất khẩu được 355 tỷ USD và nhập khẩu được 327 tỷ USD, xuất siêu được 28 tỷ USD. 5 tháng đầu năm, kim ngạch xuất nhập khẩu được 305 tỷ USD và xuất siêu được khoảng 10,2 tỷ USD, có nghĩa là có tăng trưởng khoảng 16% so với cùng kỳ. Chúng tôi đang tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hải quan và tạo thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên

Đại biểu Dương Tấn Quân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Đề nghị Bộ trưởng cho biết rõ vì sao trong thời gian qua việc triển khai các chính sách ưu đãi để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, nhất là phục vụ chế biến nông, lâm thủy sản, phát triển nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế? Việc để xảy ra hạn chế này thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước hay của doanh nghiệp? Đồng thời đề nghị Bộ trưởng cho biết những giải pháp trong thời gian sắp tới. 

Đại biểu Nguyễn Thị Ngọc Xuân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương: Theo Báo cáo số 118 của Bộ Công Thương có đề cập nội dung, Bộ sẽ đề xuất cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao giá trị nội địa hóa của sản phẩm trong nước để phát triển nền công nghiệp nước ta theo hướng bền vững. Vậy theo Bộ trưởng, trong giai đoạn mới cần điều chỉnh những chính sách cốt lõi và chiến lược nào trong thu hút FDI và lộ trình, giải pháp thực hiện như thế nào? Câu hỏi này tôi cũng xin trân trọng gửi đến Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 

Đại biểu Đoàn Thị Lê An - Đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng: Thời gian vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với các nước nhập khẩu khởi xướng các cuộc điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại ngặt nghèo. Xin Bộ trưởng cho biết ý kiến về nội dung trên? Quan điểm và giải pháp của Bộ Công Thương nhằm hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước ngoài như thế nào? Đồng thời tại thị trường Việt Nam, chúng ta đã và sẽ làm gì để bảo vệ doanh nghiệp trong nước? 

Đại biểu Trần Thị Kim Nhung - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh: Trong phần trả lời chất vấn của các vị đại biểu trước, Bộ trưởng đã nhiều lần nhấn mạnh đến nhiều giải pháp để tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động thương mại điện tử nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm, nhất là những vấn đề về phòng chống gian lận thương mại và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, như các giải pháp về hoàn thiện hành lang pháp lý, về tuyên truyền phổ biến, về tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan chức năng,… 

Tuy nhiên, chưa thấy Bộ trưởng đề cập đến giải pháp về kỹ thuật, công nghệ, mà với hoạt động thương mại điện tử thì là hoạt động trên môi trường mạng.

Có thể đưa ra một ví dụ là thực tế cũng cho thấy rằng người bán hàng trực tuyến có thể có hành vi gian lận bằng cách là tạo công cụ để làm tăng lượng giao dịch, để quảng cáo, để lừa khách hàng; hoặc có thể cũng tạo công cụ để giảm doanh thu, để từ đó giảm thuế, gây thất thu thuế của nhà nước. 

Vì vậy xin Bộ trưởng cho biết là giải pháp kỹ thuật, công nghệ này đã được chú trọng đến đâu và có được coi là một giải pháp đột phá trong thời gian qua cũng như là trong thời gian tới nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về thương mại điện tử hay không? 

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Về câu hỏi của đại biểu Trương Tấn Quân, như tôi đã nói, chúng ta đã ban hành rất nhiều các chính sách và những chính sách ấy liên quan đến rất nhiều ngành. Chúng ta cũng thấy là hệ thống chính sách của chúng ta thì ban hành rất nhiều nhưng mà cũng không những cơ chế chính sách của chúng ta bị chồng chéo, thậm chí là mâu thuẫn. Ví dụ như gần đây chúng ta có những cơ chế hỗ trợ về lãi suất hay hỗ trợ cho một số chương trình nhưng mà trên thực tế khi chúng ta triển khai thì rất bị vướng bởi những quy định khác có liên quan. Cho nên để những cơ chế, chính sách này thực sự phát huy được hiệu quả thì trong tương lai tôi nghĩ rằng việc rà soát lại những quy định của pháp luật hiện hành thuộc trách nhiệm của ngành nào thì ngành đấy rà soát và tham mưu cho cấp có thẩm quyền. Đó là cái gốc quan trọng, nhất là chính sách chúng ta ban hành ra mà không khả thi vì nó mâu thuẫn, chồng chéo hoặc là vì nó không sát với thực tế thì không được.

Thứ hai là cơ chế phối hợp giữa các ngành, giữa các ngành với địa phương. Thứ ba là năng lực tiếp thu được cơ chế của các doanh nghiệp và các đối tượng được hưởng chính sách. Các địa phương, như tôi đã nói, quan trọng nhất là anh muốn thu hút đầu tư vào những lĩnh vực này thì trước hết là phải có nguồn hàng, có chân hàng, phải quy hoạch được vùng trồng, vùng nuôi, phải có vùng nguyên liệu thì mới có nhà đầu tư, chứ họ đầu tư ở đấy mà không có vùng nguyên liệu thì họ cũng không đầu tư làm gì.

Thứ hai là đầu tư ở một địa phương nào đó thì thứ nhất là nó phải có lợi thế về tự nhiên, nhưng đồng thời cũng phải có những lợi thế nhất định bởi những cơ chế, chính sách đặc thù của địa phương, ví dụ như dành những quỹ đất hợp lý hay là hỗ trợ một khoản kinh phí qua đầu tư, qua đào tạo, qua tiếp cận đối với công nghệ,… Tôi nghĩ là nếu chúng ta trong tương lai mà thực hiện đồng bộ như vậy thì chắc chắn là những cơ chế, chính sách của chúng ta ban hành ra nói chung, chứ không chỉ là trong lĩnh vực mà đại biểu Quân nêu, tôi nghĩ rằng nó sẽ phát huy được hiệu quả. 

Về câu hỏi của đại biểu Xuân của Bình Dương, để hội nhập một cách thành công thì như tôi đã nói ở phần trên là không phải chúng ta đo đếm bằng các hiệp định chúng ta ký là bao nhiêu hay là có bao nhiêu vốn, bao nhiêu nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư vào Việt Nam, thậm chí là có bao nhiêu kim ngạch xuất khẩu chúng ta đạt được trong từng năm mà điều quan trọng là doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào quá trình sản xuất, cung ứng toàn cầu được bao nhiêu, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do được bao nhiêu mới là vấn đề quan trọng.

Vậy nên, để nâng được tỷ trọng khai thác hiệu quả các hiệp định của doanh nghiệp trong nước, thì một mặt là nâng sức khỏe của doanh nghiệp, các giải pháp tôi đã đã trình bày ở trên rồi. Còn đối với chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài thì đã đến lúc chúng ta phải rà soát lại để có những cơ chế chỉ ưu tiên thu hút đầu tư đối với những doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao, có công nghệ quản trị tốt. Thứ hai nữa là chỉ ưu tiên những doanh nghiệp có cam kết lan tỏa, hay nói cách khác là hợp tác với các doanh nghiệp trong nước, để cùng phát triển, phải có lộ trình thì mới được triển khai.

Nếu chúng ta áp dụng đồng bộ những cơ chế như thế thì tôi nghĩ rằng trong tương lai thì việc thu hút doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thì sẽ được cải thiện hơn. 

Về câu hỏi thứ ba của đại biểu Lê An, có mấy vấn đề mà chúng ta cần phải lưu ý.

Cho đến thời điểm này thì hàng hóa của Việt Nam chúng ta đã bị các đối tác nước ngoài khởi kiện là 247 vụ, từ 24 thị trường với rất nhiều mặt hàng. Nguyên nhân của hiện tượng này là:

Thứ nhất, Việt Nam chúng ta đã tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do để mở rộng, gia tăng xuất khẩu, và như tôi đã nói là quy mô tăng lên hàng năm từ 5-6%, năm nào chúng ta cũng xuất siêu, năm xuất siêu cao nhất là 28 tỷ USD. Cho nên là theo quy định thì người ta phải xem xét các biện pháp phòng vệ để bảo vệ sản xuất trong nước của họ. 

Thứ hai, việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực khiến Việt Nam trở thành quốc gia thường xuyên bị điều tra chung với các nước khác, thường xuyên bị điều tra phòng vệ thương mại hoặc bị nghi ngờ chuyển tải bất hợp pháp nhằm lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với những nước này.

Thứ ba, một số nước có xu hướng lạm dụng biện pháp phòng vệ thương mại để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước quá mức cần thiết, thậm chí là sử dụng nhiều biện pháp kỹ thuật điều tra chưa phù hợp với WTO và các thông lệ quốc tế.

Trong thời gian vừa qua, Bộ Công Thương đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp xử lý hiệu quả các vụ phòng vệ thương mại và kết quả là chúng ta đã giải quyết được rất nhiều vụ với các sản phẩm như thép, mật ong, một số sản phẩm dệt may, da giày,…

Thời gian tới, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, địa phương cần phối hợp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông qua đăng ký đầu tư nước ngoài, đồng thời cung cấp cho các doanh nghiệp hoạt động tại địa phương những thông tin cần thiết để khai thác được các hiệp định. 

Thứ hai, cân nhắc khi ban hành các chính sách có thể bị cáo buộc là chúng ta trợ cấp. Ở một số lĩnh vực của chúng ta, như trong lĩnh vực năng lượng chẳng hạn, thì cũng đã có một vài đối tác đề cập đến giá xăng dầu hay là giá điện của chúng ta, tại sao lại thấp so với khu vực và thế giới. Như vậy họ cũng đang nghi ngờ về chuyện chúng ta có trợ giá. Vậy nên trong tương lai thì Thủ tướng cũng đã chỉ đạo là từng bước chúng ta phải chuyển theo cơ chế thị trường, đó là làm sao giá phải đảm bảo mặt bằng chung của thế giới, đảm bảo nguồn đầu vào cũng như đầu ra hợp lý. 

Thứ ba, cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý là Bộ Công Thương đúng thời hạn trong trường hợp xử lý vụ việc phòng vệ thương mại của nước ngoài. Quản lý, giám sát các hoạt động doanh nghiệp trên địa bàn để phát hiện và ngăn chặn lẩn tránh. 

Còn đối với các hiệp hội doanh nghiệp thì phải theo dõi thông tin cảnh báo sớm của Bộ Công Thương để tránh. Định hướng chiến lược chung và khuyến khích các doanh nghiệp thành viên tham gia khi bị điều tra để bảo vệ lợi ích chung của cả ngành. 

Trước tình trạng như vừa rồi mạnh ai người nấy chạy, doanh nghiệp gạo là cứ bán được giá của mình, giải quyết vấn đề của mình thôi chứ cũng không quan tâm đến thương hiệu hạt gạo của Việt Nam, cũng không quan tâm đến lợi ích của các doanh nghiệp và người sản xuất khác, thì cái đó là không ổn. 

Phải tìm hiểu quy định của pháp luật, thực tiễn điều tra chống lần tránh các biện pháp phòng vệ thương mại của thị trường xuất khẩu mục tiêu để có được những biện pháp phù hợp. 

Tăng cường cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm, tăng cường sử dụng các nguyên liệu được sản xuất trong nước hoặc là theo chuỗi khép kín - đây cũng là khuyến cáo của các  thị trường nhập khẩu. 

Triển khai hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu rõ ràng, minh bạch. 

Đa dạng hóa thị trường, tìm kiếm những thị trường mới còn nhiều tiềm năng. 

Tuân thủ chặt chẽ các quy định về chứng nhận xuất xứ, không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. 

Trước khi thực hiện các hợp đồng cần trao đổi kỹ lưỡng với đối tác nhập khẩu để tránh rủi ro và khả năng bị điều tra phòng vệ. 

Còn khi đã bị điều tra rồi thì phải liên hệ với cơ quan chức năng thuộc Bộ Công Thương, mà trước hết là các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp chúng ta xuất khẩu hàng đi nước ngoài, còn đối với doanh nghiệp trong nước thì đương nhiên là các cơ quan chức năng Bộ Công Thương sẽ xem xét để xử lý vấn đề này.

Về vấn đề tranh luận của đại biểu Kim Dung, chúng tôi thấy rất đồng tình, là giải pháp về kỹ thuật, về công nghệ để đấu tranh chống hàng gian, hàng giả, hay nói cách khác là những mặt trái của thương mại điện tử, là rất cần thiết. Như trong phần trả lời trên tôi đã nói là trách nhiệm quản lý nhà nước, hay trách nhiệm trong lĩnh vực này là của rất nhiều ngành, trong đó có ngành thông tin truyền thông. Tôi nghĩ về mặt công nghệ là ngành thông tin truyền thông sẽ phải tham gia một cách tích cực để góp phần giải quyết vấn đề này. Ngành tài chính thì phải tham gia tích cực trong vấn đề thuế, hay ngành khoa học công nghệ thì phải tham gia tích cực trong vấn đề chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn,…

Tôi rất đồng tình với đại biểu rằng để nâng cao được hiệu quả trong đấu tranh chống những mặt trái của thương mại điện tử thì cần có sự vào cuộc của rất nhiều ngành, rất nhiều địa phương và cả doanh nghiệp cũng như người sản xuất, trong đó thì những giải pháp về công nghệ, tôi rất đồng tình, là giải pháp căn cơ nhất và quan trọng nhất để chúng ta có thể làm được. Bởi vì nếu mà chúng ta đánh sập được những trang mạng hoặc kịp thời phát hiện được những vi phạm của những hiện tượng như là livestream,… thì các cơ quan chức năng sẽ vào cuộc xử lý theo quy định một cách kịp thời và hiệu quả. 

Đại biểu Trịnh Minh Bình - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long: Xin Bộ trưởng cho biết Bộ trưởng có giải pháp gì nếu người đứng đầu lãnh đạo, quản lý công chức trực tiếp quản lý trên địa bàn mà để xảy ra tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ, gian lận thương mại mà gây bức xúc trong nhân dân?

Đại biểu Phạm Văn Hòa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Hiện nay, ngành công nghiệp dệt may, da giày xuất khẩu theo báo cáo là chưa chủ động được nguồn nguyên liệu, phụ liệu, bị lệ thuộc vào đối tác nước ngoài rất nhiều, giá trị gia tăng không được cải thiện, chi phí trên các lĩnh vực tăng nên giá thành sản phẩm tăng theo, sức hấp dẫn với các nhà đầu tư giảm dần, dẫn đến làn sóng chuyển dịch đầu tư sang các nước khác, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và tiêu dùng của nước ta về ngành này và việc làm của người lao động. Xin Bộ trưởng cho biết vấn đề này và hướng xử lý ra sao?

Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc: Ngày 30/8/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, trong đó có giao cho Bộ Công Thương thực hiện đề án xây dựng bộ chỉ số đánh giá kết quả thực hiện các hiệp định thương mại tự do hàng năm của các địa phương. Đây là cơ sở quan trọng để Chính phủ và Quốc hội chỉ đạo và giám sát việc thực hiện FTA của các địa phương.

Xin hỏi Bộ trưởng khi nào thì bộ tiêu chí này hoàn thành để đưa vào thực hiện và liệu có trùng với một số biến mới trong chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI hay không, nếu trùng thì giải pháp thực hiện như thế nào? 

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Kính thưa Quốc hội, 

Kính thưa đại biểu, 

Đại biểu Minh Bình có hỏi là giải pháp thế nào để xử lý trách nhiệm người đứng đầu để xảy ra tình trạng hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng, thì như tôi đã nói, vấn đề hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng, nhất là trong môi trường thương mại điện tử hay là trong nền kinh tế thị trường của chúng ta, vì lợi nhuận thì người ta làm thôi. Thế thì bây giờ phải quy trách nhiệm cho từng cơ quan chức năng, từng tổ chức có chức năng. Nếu mà quy định trách nhiệm của người đứng đầu, thì khái niệm chúng ta hiểu người đứng đầu ở đây là đứng đầu địa phương, hay đứng đầu ngành, hay đứng đầu cơ quan?

Nếu như chúng ta quy trách nhiệm người đứng đầu của những ngành, những địa phương, đơn vị có liên quan đến việc này thì tôi nghĩ cũng là một yêu cầu cần thiết. Nhưng nếu dồn một trách nhiệm cho một người thì cũng là câu chuyện chúng ta phải tính. Bởi lẽ nó còn tùy thuộc vào sự vào cuộc của rất nhiều các cơ quan, các tổ chức thì mới có thể áp dụng những biện pháp hoặc là những chế tài theo quy định của pháp luật và xử lý. Thế bây giờ nếu dùng trách nhiệm như thế thì tôi nghĩ là nó cũng chưa thật là đầy đủ. Trong tương lai chúng tôi sẽ nghiên cứu để phối hợp cùng các cơ quan chức năng tiếp tục tham mưu cho Chính phủ nghiên cứu xem có những quy định như thế nào.

Trong thực tế thì có rất nhiều thứ mà chúng ta quy trách nhiệm cho người đứng đầu, nhưng mà những thứ đó là người đứng đầu có thể kiểm soát được. Tuy nhiên tình trạng sản xuất hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng này mà quy cho một người đứng đầu, một khái niệm đứng đầu rất là chung chung, thì rất khó. Thế còn nếu mà quy trách nhiệm người đứng đầu ở một đơn vị chức năng cụ thể ở một công việc cụ thể, thì tôi nghĩ rằng cái đó có thể được, nhưng cũng rất cần có thời gian để nghiên cứu. Bởi vì chúng ta ngồi đây cũng rất nhiều người đang là người đứng đầu. Nếu chúng ta quy định như thế thì chắc chắn nó cũng không dễ gì chúng ta thực hiện, mà đã quy định là phải thực hiện, nếu thực hiện không được thì quy định cũng không có hiệu quả. 

Chúng tôi xin được tiếp thu ý kiến này và sẽ tiếp tục nghiên cứu để có dịp trao đổi trực tiếp hoặc giải trình với đại biểu sau, hoặc là được thể hiện trong kết quả tham mưu cho cấp có thẩm quyền. 

Về câu hỏi thứ hai liên quan đến ngành dệt may, da giày, tôi xin báo cáo, thực sự là sản phẩm dệt may, da giày của chúng ta trong khoảng 10 năm vừa qua luôn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, và ngành này cũng đã đóng góp cho giá trị tăng trưởng của xuất khẩu, đóng góp trong việc giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động. Ở một chừng mực nào đó, trong giai đoạn đầu cách đây khoảng 10 năm, ngành này cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của chúng ta. 

Tuy nhiên, Việt Nam đến thời điểm này cũng không còn là thiên đường cho những ngành công nghiệp thâm dụng về lao động, thâm dụng về đất đai hay là năng suất lao động thấp, giá trị nhân công rẻ nữa. Cho nên là việc chuyển dịch của những doanh nghiệp trong ngành công nghiệp dệt may, da giày sang các nước khác ở thời điểm này trở đi tôi nghĩ rằng cũng là việc bình thường.

Không chỉ riêng ngành dệt may, da giày mà tất cả những ngành sản xuất khác để xuất khẩu của Việt Nam đều phải đặt mục tiêu là phải làm chủ nhiều hơn trong khâu cung ứng về nguyên liệu. Bởi vì nếu chúng ta cứ nhập các nguyên liệu từ nước ngoài về sản xuất, thì xin thưa, suy cho cùng chúng ta chỉ làm gia công. Mà gia công thì giá trị sinh lợi không lớn, hiệu quả không cao. 

Vì vậy, chúng tôi cũng đã kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là vừa qua thì chúng ta đã có quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch các địa phương. Đặc biệt trong lĩnh vực Công Thương, chúng tôi có 4 quy hoạch ngành quốc gia, đó là quy hoạch về năng lượng, quy hoạch về điện, quy hoạch về xăng dầu, khí đốt quốc gia và quy hoạch về khai thác, chế biến khoáng sản. 4 quy hoạch trong lĩnh vực năng lượng, khoáng sản này đều là những lĩnh vực mà có thể sẽ tạo ra nguồn nguyên liệu để phục vụ cho nhu cầu sản xuất xuất khẩu của chúng ta rất lớn. Đồng thời cũng sẽ đóng góp cho nguồn thu ngân sách của các địa phương và nguồn thu ngân sách quốc gia. 

Cho nên trong tương lai, không chỉ là ngành dệt may mà tất cả các ngành sản xuất khác để xuất khẩu của chúng ta phải cố gắng khai thác các nguyên liệu tại chỗ, bằng cách khai thác những tài nguyên khoáng sản tại chỗ để chúng ta từng bước tự chủ nguồn nguyên liệu này và nâng giá trị của sản phẩm xuất khẩu của chúng ta, chứ không phải chỉ là giá trị gia công như giai đoạn vừa qua.

Về ý kiến của đại biểu Văn Mạnh khi nào bộ chỉ số FTA được ban hành, thì xin báo cáo với đại biểu là Bộ đang xây dựng Bộ chỉ số FTA Index và dự kiến khoảng cuối quý 3, đầu quý 4 năm nay sẽ được ban hành. Hiện nay Bộ chỉ số còn đang trong quy trình lấy ý kiến của các đối tượng chịu tác động và các Bộ, ngành, các cơ quan có liên quan.

Đại biểu hỏi là bộ chỉ số này có khác so với Bộ chỉ số của VCCI hay không, thì tôi nghĩ rằng nó sẽ không thể giống được. Bởi vì nếu giống thì cũng không cần phải ban hành làm gì. Trong quá trình xây dựng bộ chỉ số này thì VCCI sẽ là một trong những thành phần tham gia góp ý để hoàn thiện bộ chỉ số này, vậy nên chúng tôi sẽ cố gắng là không có trùng, nếu trùng là không có làm. Và bộ chỉ số này chỉ tập trung vào chỉ số thực hiện các hiệp định thương mại tự do, do đó sẽ khác so với Bộ chỉ số do VCCI ban hành.

Tôi cũng mong các đại biểu quan tâm vấn đề này có thể góp ý cho chúng tôi, chúng tôi cũng sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu có chọn lọc để có thể hoàn thiện bộ chỉ số công bố trong thời gian sớm nhất.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên

Đại biểu Phạm Thị Thanh Mai - Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội: Theo báo cáo của Bộ Công Thương, từ năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã triển khai hoạt động doanh nghiệp ký cam kết nói không với hàng giả trong thương mại điện tử. Năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, ban hành Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025. Tuy nhiên, tình trạng kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và có những website công khai kinh doanh hàng hóa bất hợp pháp như quân trang, công cụ, dụng cụ của lực lượng vũ trang. Cử tri, nhân dân rất bức xúc trước những xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng cũng như của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính. 

Đề nghị Bộ trưởng cho biết việc ký cam kết như vậy có thật sự hiệu quả không, có cần thiết không và cơ chế kiểm tra, kiểm soát của Bộ đối với các doanh nghiệp trong thực hiện cam kết như thế nào? Đến bao giờ thì chúng ta sẽ hoàn thành công tác tham mưu thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương điều chỉnh, bổ sung một số quy định, trong đó có 2 nghị định và 7 nhóm quy định liên quan đến hoạt động thương mại điện tử đã đề ra trong Báo cáo số 118 của Bộ? 

Đại biểu Trần Thị Hồng Thanh - Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Bình: Thương mại điện tử xuyên biên giới đang mở ra nhiều cơ hội cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt. Trong một số câu hỏi chất vấn của một số đại biểu trước tôi và cũng đã được Bộ trưởng trả lời về giải pháp quản lý loại hình thương mại này đối với hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt. Tuy nhiên, đối với người tiêu dùng Việt, thương mại điện tử xuyên biên giới vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ lừa đảo, nhận hàng kém chất lượng, rủi ro trong vấn đề thanh toán. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam ngoài việc phải đối mặt với khó khăn trong khâu logistics quốc tế thì hiện vẫn còn loay hoay vì nhiều khó khăn về ngôn ngữ, khác biệt văn hóa cũng như khâu thanh toán quốc tế. 

Đề nghị Bộ trưởng cho biết Bộ có giải pháp gì trong quản lý để quản trị tốt rủi ro, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt trong thương mại điện tử xuyên biên giới, từ đó góp phần thúc đẩy thương mại điện tử xuyên biên giới phát triển bền vững?

Đại biểu Cao Thị Xuân - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Xin được chuyển đến Bộ trưởng một câu hỏi liên quan đến nội dung ban hành chính sách. Ngày 27/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 431/QĐ-TTg phê duyệt Đề án quản lý hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, trong đó giao cho Bộ Công Thương chủ động xây dựng chính sách quản lý các giao dịch trong hoạt động thương mại điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Xin Bộ trưởng cho biết sau hơn bốn năm các chính sách đã được Bộ ban hành hay chưa? Nếu đã ban hành thì đó là những chính sách cụ thể như thế nào? Nếu chưa ban hành thì hiện nay việc quản lý được thực hiện theo quy định của quy định nào? 

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên trả lời:

Tôi xin trả lời câu hỏi của đại biểu Thanh Mai, việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng trên môi trường thực thì chúng ta thấy đã khó, ở trên môi trường điện tử còn khó hơn nhiều.

Vì vậy, để chống hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng trên môi trường này, cần thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ, đòi hỏi sự tham gia của tất cả các bên liên quan, từ Bộ, ngành đến địa phương và doanh nghiệp và cả người tiêu dùng. Trong đó, việc các sàn thương mại điện tử ký cam kết là một trong những biện pháp quan trọng. chúng tôi xác định như vậy. Việc ký cam kết đã giúp nâng cao trách nhiệm của các sàn thương mại điện tử, các sàn cũng đã thể hiện được quyết tâm và cam kết tích cực phối hợp với ngành Công Thương trong đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. 

Cụ thể, các sàn đã đăng tải những logo nói không với hàng giả trên các sàn của mình, xây dựng, đăng tải trên trang chủ website về quy trình tiếp nhận, xử lý phản ánh, khiếu nại về hàng giả để triển khai các biện pháp kỹ thuật, bộ lọc, từ khóa, nhân sự nhằm ngăn chặn, loại bỏ và xử lý các sản phẩm vi phạm trên website, ứng dụng. Đồng thời, có cơ chế kiểm soát riêng như rà soát danh mục hàng hóa người bán dự kiến kinh doanh; kiểm tra nguồn gốc sản phẩm qua hợp đồng, hóa đơn; đưa một số hàng hóa, sản phẩm vào danh sách kiểm soát đặc biệt,…

Ngoài việc các sàn tự kiểm tra phát hiện, xử lý, Bộ Công Thương cũng có cơ chế giám sát các sàn thương mại điện tử, theo dõi các sàn này để tự phát hiện xem những sản phẩm vi phạm như thế nào qua hệ thống công nghệ thông tin. Thứ hai là phát hiện vi phạm thông qua phản ánh của người tiêu dùng theo cơ chế trực tuyến 24/7 tiếp nhận phản ánh của người tiêu dùng và tổng đài bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khắp cả nước. Phạt tiền hoặc đình chỉ kinh doanh của các sàn thương mại điện tử nếu vi phạm theo quy định hiện hành.

Về hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thương mại điện tử, tình trạng kinh doanh hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng và vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trên không gian mạng diễn ra một phần là vì các quy định trách nhiệm và chế tài xử lý đối với hành vi này còn thiếu hay là chưa đủ mạnh. Vậy nên Bộ Công Thương đã xây dựng Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hiện nay dự thảo Nghị định đã và đang được lấy ý kiến của các Bộ, ngành liên quan và trong tháng này sẽ gửi Bộ Tư pháp thẩm định, dự kiến Bộ Công Thương sẽ trình Chính phủ trong quý 3. 

Ngoài ra, Bộ Công Thương đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan, đặc biệt là Bộ Công an để triển khai thực hiện định danh tài khoản người bán trên thương mại điện tử nhằm tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các sàn giao dịch này. 

Đối với ý kiến của đại biểu Hồng Thanh về thương mại điện tử xuyên biên giới đặt ra nhiều rủi ro, chúng ta cũng thấy rằng thương mại điện tử xuyên biên giới đang là một xu thế phổ biến, tất yếu. Các nước có chung đường biên giới đất liền thì đều đẩy mạnh quá trình lập kho, tập kết hàng để nhanh chóng xuất khẩu qua kênh thương mại điện tử và thực tế thì những kho này không chỉ là tập kết hàng của họ xuất sang ta mà còn là kho để tập kết hàng nhập khẩu từ Việt Nam bán sang thị trường của các nước. Nước ta cũng đang triển khai các hoạt động này, nhất là những địa phương có chung đường biên giới với ba nước Trung Quốc, Lào, Campuchia đã và đang triển khai các hạ tầng dịch vụ logistics, trong đó có những kho tập kết hàng hóa.

Để kiểm soát được hàng nước ngoài ồ ạt thống lĩnh thị trường, thời gian qua Bộ Công Thương đã khuyến nghị các doanh nghiệp và người sản xuất trong nước cần phải chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Thứ hai là đẩy mạnh triển khai cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam trên môi trường điện tử và thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu trực tuyến. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng nhập khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, nhất là huy động lực lượng quản lý thị trường trên cả nước vào cuộc trong vấn đề này.

Thời gian tới, để kiểm soát việc thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài, Bộ Công Thương dự kiến  trình Chính phủ ban hành quy định về quản lý hải quan với hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại biên giới, như đã nói, là tách bạch giữa luồng hàng hóa thông thường với hàng hóa thương mại điện tử. 

Hai là, là bỏ quy định về miễn thuế giá trị gia tăng và thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có giá trị nhỏ, để chúng ta kiểm soát được chặt chẽ, đồng thời chống thất thu nguồn thuế trong nhóm này. 

Ba là, có cơ chế, chính sách khuyến khích và ràng buộc các doanh nghiệp, người sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với hàng ngoại nhập và đẩy mạnh Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng xuất khẩu trực tuyến qua biên giới, Bộ Công Thương sẽ đề xuất Chính phủ có chính sách ưu đãi về tín dụng, về thuế cho doanh nghiệp để xây dựng các kho bãi, các trung tâm logistics ở khu vực biên giới. Đối với các địa phương, cần dành những quỹ đất và có những khoản đầu tư hỗ trợ về hạ tầng, cũng như là công tác đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ tiếp cận với công nghệ thông qua các đề tài khoa học để giúp cho các doanh nghiệp này có thể hội nhập tốt hơn, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm và chú trọng xây dựng thương hiệu bao bì, nhãn mác sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của các nước. 

Về ý kiến cuối cùng của đại biểu Cao Thị Xuân, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử. 

Bộ cũng đã trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng  để phù hợp hơn. Bởi vì mặc dù là mới ban hành năm 2020 nhưng đến nay Nghị định đã bộc lộ những hạn chế như vậy. 

Để đạt mục tiêu tiếp theo thì trong thời gian tới Bộ Công Thương sẽ đề ra sáu nhóm giải pháp:

Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại điện tử trong bối cảnh công nghiệp 4.0. 

Hai là, nâng cao năng lực quản lý, tổ chức hoạt động thương mại điện tử, đấu tranh với các hành vi gian lận thương mại, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh không lành mạnh trên môi trường này.

Ba là, xây dựng thị trường và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng cho thương mại điện tử, tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng dịch vụ hỗ trợ cho thương mại điện tử, ví dụ như hỗ trợ logistics kho bãi hoặc là các nơi tập kết hàng hóa,…

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử, hỗ trợ các ngành xuất khẩu chủ lực mở rộng tiêu thụ hàng hóa nội địa và thúc đẩy phát triển thương mại điện tử tại các địa phương. 

Năm là, phát triển và ứng dụng công nghệ mới trong thương mại điện tử, hỗ trợ quá trình chuyển đổi doanh nghiệp. Đặc biệt, trong tháng 5 vừa rồi, Bộ Công Thương đã cùng với các Bộ, ngành có liên quan tham mưu cho cấp thẩm quyền ban hành Luật Bảo vệ quyền người tiêu dùng và Nghị định 55/2024/NĐ-CP để hướng dẫn Luật này đã và đang phát huy hiệu quả.

Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục làm tốt chức năng tham mưu cho cấp có thẩm quyền rà soát, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. 

Bên cạnh đó, phải triển khai tổ chức thực thi những quy định của pháp luật hiện hành, nhất là kiện toàn lực lượng, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu thuộc các bộ phận để có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật hiện hành nhằm chống được tiêu cực và những hạn chế trong lĩnh vực thương mại điện tử như đại biểu nêu. 

Tạp chí Công Thương sẽ tiếp tục cập nhật nội dung Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.

Nhóm PV