[TỔNG THUẬT TỌA ĐÀM] Cơ hội phát triển sản phẩm thương mại xanh sang thị trường Anh

Sáng 11/12, Tạp chí Công Thương tổ chức Tọa đàm với chủ đề “Cơ hội phát triển sản phẩm thương mại xanh sang thị trường Anh” nhằm trao đổi về cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trước xu hướng thương mại xanh của thị trường Anh; những giải pháp gia tăng phát triển sản phẩm xanh tại thị trường này...
thương mại xanh
Tọa đàm do Tạp chí Công Thương thực hiện, phát trực tuyến trên Tạp chí Công Thương điện tử; Fanpage: Tự hào hàng Việt Nam vào 9h30 Thứ Hai ngày 11/12/2024.

BTV Lan Anh:

Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA), xuất khẩu sang Anh liên tục duy trì đà tăng trưởng, kể trong cả năm 2023 - khi kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, các thị trường nhập khẩu nhiều hàng Việt sụt giảm tiêu dùng.  Đây là thành quả của những nỗ lực của doanh nghiệp và các cơ quan chức năng, đồng thời phản ánh những lợi ích của UKVFTA mang lại. Bên cạnh đó với các lệnh gỡ bỏ thuế quan triệt trong UKVFTA cũng góp phần quan trọng để nâng cao thị phần của một số nhóm hàng có thế mạnh của Việt Nam tại thị trường Vương quốc Anh.

Tuy nhiên, hàng xuất khẩu Việt Nam cũng đối mặt nhiều thách thức khi Anh có yêu cầu rất cao về sản phẩm xanh. Cụ thể, Vương quốc Anh yêu cầu hàng nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp xanh, cắt giảm phát thải trong quá trình sản xuất, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, tuân thủ nghiêm ngặt về lao động, môi trường, tiết kiệm tài nguyên.

Theo nhận định của các chuyên gia, để tận dụng tốt hơn ưu đãi từ FTA song phương, doanh nghiệp Việt buộc phải chú ý tới thương mại xanh và công bằng hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thương mại toàn cầu.

Vấn đề này sẽ được chia sẻ với góc nhìn đa dạng và sâu sắc hơn tại tọa đàm hôm nay do Tạp chí Công Thương thực hiện. Tọa đàm với chủ đề: Cơ hội phát triển sản phẩm thương mại xanh sang thị trường Anh”.

Tới dự Tọa đàm có sự tham gia của các vị khách mời. Xin trân trọng giới thiệu: 

- Ông Nguyễn Cảnh Cường - Nguyên Tham tán công sứ Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh

- Bà Nguyễn Sơn Trà, Trưởng phòng WTO và đàm phán thương mại, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương

- TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam)

- Bà Nguyễn Thị Huyền - CEO, Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex)     

BTV Lan Anh: Câu hỏi đầu tiên tôi xin gửi tới Bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên. 

Sau hơn 3 năm thực thi, điểm nổi bật trong hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và Anh đã có tác động tới tình hình hợp tác thương mại, đầu tư giữa Vương quốc Anh và Việt Nam như thế nào? Các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được cơ hội này ra sao thế nào?

Bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:

Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Vương quốc Anh thời điểm trước khi có Hiệp định UKVFTA hai bên cũng đã trao đổi thương mại trên cơ sở các cam kết đã có trong Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu từ 1/8/2020. Bởi vì ở thời điểm đó Vương quốc Anh vẫn chưa kết thúc tiến trình đàm phán Brexit rời khỏi Liên minh châu Âu cho nên cả Việt Nam và UK thời điểm đó vẫn thực hiện các cam kết trong khuôn khổ EVFTA.

Sau khi Vương quốc Anh chính thức rời khỏi Liên minh châu Âu thì từ ngày 1/1/2021 hai bên bắt đầu triển khai các cam kết của mình trong khuôn khổ Hiệp định song phương giữa Việt Nam và Vương quốc Anh. Như vậy, từ thời điểm đó đến bây giờ chúng ta đã trải qua 4 năm triển khai những cam kết của hai bên trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương.

Chúng tôi nhận thấy trong thời gian đó, những hỗ trợ từ những cam kết tạo thuận lợi thương mại song phương giữa hai bên, cụ thể là những cam kết rất thuận lợi về mặt thuế quan. Vương quốc Anh cam kết cắt giảm thuế quan cho rất nhiều hàng hóa có triển vọng cũng như chiếm tỷ trọng thương mại rất lớn của Việt Nam sang Vương quốc Anh. Ngược lại Việt Nam cũng có những cam kết rất thuận lợi giúp cho hàng hóa của Vương quốc Anh vào Việt Nam được dễ dàng hơn.

Chúng tôi cho rằng đây là những nền tảng rất tốt để thúc đẩy quan hệ thương mại song phương giữa hai nước trong thời gian qua.

Nếu như chúng ta nhìn vào các số liệu thống kê thì thấy tỉ lệ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên và trong đó có tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh đều tăng trưởng rất cao trong những năm vừa rồi.

Ví dụ năm 2022 tỉ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Vương quốc Anh đã tăng trưởng đến hai con số hay với con số chung là tổng kim ngạch trao đổi song phương giữa hai nước cũng vậy, trong thời gian gần đây là năm 2023 hay theo số liệu của 10 tháng đầu năm 2024 thì tỉ lệ tăng trưởng cũng rất khả quan.

Chúng tôi cho rằng với những thuận lợi từ những cam kết có được trong khuôn khổ FTA song phương giữa hai bên đã có tác dụng rất tốt đến việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại song phương giữa hai nước.

Với những nền tảng như vậy thì chúng ta có thể thấy hiện nay UK đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam tại Châu Âu, chỉ sau Hà Lan và Đức. Đó là một điểm rất tích cực trong quan hệ thương mại song phương giữa hai nước.

Sơn Trà
Nhập chú thích ảnh

BTV Lan Anh: Được biết, ngoài cắt giảm thuế quan thì Hiệp định UKVFTA còn là một khuôn khổ quan trọng cho các hoạt động hợp tác về thương mại xanh và công bằng - xu thế phát triển quan trọng trên toàn cầu nhằm đáp ứng yêu cầu về phát triển bền vững.

Bà có thể chia sẻ thêm về những điểm nổi bật trong các cam kết liên quan đến phát triển bền vững trong UKVFTA và lộ trình thực thi, đặc biệt là những yêu cầu về thương mại xanh và tiêu chuẩn về phát triển bền vững, thưa bà?

Bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:

Có hẳn một chương riêng về thương mại và phát triển bền vững trong Hiệp định này. Trong chương đó, hai bên đã cam kết sẽ thúc đẩy và thực thi hiệu quả các Công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mà hai bên đều là thành viên và các hiệp định đa phương về môi trường mà hai bên đã tham gia ký kết.

Bên cạnh đó, hai bên cũng nhất trí tăng cường hợp tác thông qua cơ chế chia sẻ thông tin và kinh nghiệm để thúc đẩy việc phê chuẩn và thực thi các công ước trong liên quan đến các hiệp định đa phương khác về biến đổi khí hậu, về đa dạng sinh học hay là các hiệp định về quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản, thúc đẩy phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững và đặc biệt hai bên cũng cam kết sẽ hợp tác tích cực để chống lại các hoạt động đánh bắt thủy, hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định mà chúng ta vẫn thường gọi tắt là IUU.

Ngoài ra, hai bên cũng có những cam kết để thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp phù hợp với pháp luật hoặc chính sách trong nước với điều kiện không gây ra sự phân biệt đối xử tùy tiện và vô lý hoặc tạo thành một phương thức hạn chế thương mại trá hình.

Do đây là một vấn đề mà cả hai bên rất quan tâm, cho nên trong khuôn khổ chương thương mại và phát triển bền vững của Hiệp định UKVFTA, hai bên cùng cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy thực thi nghiêm túc chương về thương mại và phát triển bền vững thông qua cơ chế minh bạch hóa thông tin, thúc đẩy đối thoại rồi thành lập Ủy ban về thương mại và phát triển bền vững với nhiệm vụ rà soát thực tình hình thực thi để từ đó phát hiện những vướng mắc, những vấn đề bất cập diễn ra trong quá trình thực thi và từ đó tìm kiếm được một giải pháp phù hợp.

Cũng theo khuôn khổ của Hiệp định này, hai bên cũng có những quy định liên quan đến việc cho phép sự tham gia đóng góp cũng như sự tham gia có ý kiến rộng rãi của các tổ chức phi Chính phủ thông qua cơ chế nhóm tư vấn trong nước (hay còn gọi tắt là DAG). Tuy nhiên nó không đặt ra các vấn đề về trừng phạt thương mại.

Thực tế trong thời gian qua khi mà triển khai Hiệp định, Chính phủ Việt Nam cũng như phía Vương quốc Anh đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ và có những trao đổi, đối thoại trong khuôn khổ của Chương Thương mại và Phát triển bền vững cũng như tổ chức các diễn đàn chung giữa cơ quan Chính phủ của hai bên với các tổ chức có quan tâm để từ đó tiếp nhận những ý kiến, đóng góp để làm sao mà hai bên có thể thực hiện được hiệu quả hơn những cam kết trong Chương Thương mại và phát triển bền vững của Hiệp định UKVFTA.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn bà và câu hỏi tiếp theo tôi xin gửi tới ông Nguyễn Cảnh Cường. Có nhận định cho rằng trước bối cảnh Anh đưa ra các chính sách thương mại xanh thì các doanh nghiệp Việt Nam đã nhìn thấy những cơ hội mới trong thương mại xanh đối với Anh. Vậy là người có thực tiễn công tác lâu năm tại địa bàn Anh, ông có thể cho biết những cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong thương mại xanh với thị trường Anh là gì?

Ông Nguyễn Cảnh Cường - Nguyên Tham tán công sứ Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh:

Tôi chia sẻ với nhận định của Sơn Trà về nội dung thương mại và phát triển bền vững bây giờ đã trở thành một nội dung không thể thiếu trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Ý tưởng này lúc đầu được coi như một yêu cầu tự nguyện, không mang tính bắt buộc cho các đối tác, nhưng khái niệm tự nguyện dần dần cũng trở thành bắt buộc. Nó không phải một yêu cầu từ phía Chính phủ, không phải một yêu cầu từ các luật định của Chính phủ Anh, nhưng nó đã trở thành một trong những yêu cầu tiên quyết của các nhà phân phối, của các doanh nghiệp nhập khẩu. Khi họ đi tìm đến hạ nguồn hàng mới thì những yêu cầu về phát triển bền vững này dù gọi là tự nguyện nhưng cũng là yêu cầu bắt buộc. Bởi vì nếu các nhà xuất khẩu hay các nhà sản xuất muốn xuất khẩu sản phẩm sang Anh không đạt được các tiêu chí phát triển bền vững thì cũng không được hoan nghênh.

Giai đoạn đầu có thể do nhu cầu của thị trường, các nhà nhập khẩu và phân phối Anh có thể không ưu tiên, vì họ cần thì họ vẫn mua. Nhưng cùng với thời gian, theo sự quan sát của tôi, nhất là khi họ bắt đầu tái định hình, tái phát triển lại sản xuất nội địa của các ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp Anh đang được hồi sinh, đang được ưu tiên chú trọng phát triển hơn sau Brexit và sau Covid-19 thì sản xuất và nguồn cung các sản phẩm nông nghiệp ở trong nước Anh đã tăng lên và sức ép về nhu cầu nhập khẩu của thị trường Anh giảm. Khi sức ép về nhu cầu nhập khẩu giảm thì sẽ tăng yêu cầu lên. Trong những yêu cầu tăng lên có yêu cầu về xanh, về phát triển bền vững.

Yêu cầu này vừa là thách thức, vừa là cơ hội.

Thách thức thì tôi nghĩ tôi và chị Trà cũng đã nói rồi, yêu cầu cao hơn nhưng cơ hội thì tôi nghĩ không phải một số mà cũng nhiều doanh nghiệp Việt Nam có những nền tảng, có những thuận lợi tự nhiên để phát triển những sản phẩm xanh. So với các nước khác, Việt Nam có những lợi thế về phát triển những sản phẩm xanh.

Do đó, thách thức này đã trở thành cơ hội và những doanh nghiệp Việt Nam có khả năng chuyển đổi hay tăng tỷ lệ các sản phẩm xanh và chuyển đổi sản xuất của mình theo hướng xanh hơn, sạch hơn, ít phát thải hơn thì sẽ được các bạn hàng ở Vương quốc Anh hoan nghênh hơn.

Như vậy cơ hội để phát triển các sản phẩm xanh sang thị trường Anh nằm trong nhận thức của doanh nghiệp Anh và nó nằm trong nhận thức của người tiêu dùng Anh.

Ngoài thuận lợi nhờ Hiệp định thương mại tự do UKVFTA mang lại thông qua miễn giảm thuế thì nhận thức của doanh nghiệp Anh, của người tiêu dùng Anh quan tâm hơn đến phát triển bền vững, môi trường, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Xu hướng đó ở thị trường Anh sẽ tạo ra những cơ hội mới cho những doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được những tiêu chí đó và hưởng ứng được xu hướng vận động của thị trường Anh và hưởng ứng được ưu tiên hưởng ứng được triết lý về phát triển bền vững và tiêu dùng bền vững ở thị trường Anh.

Tôi nghĩ khi nói về việc chuyển đổi sản xuất và chuyển đổi mô hình phát triển thì cũng có thể có nhiều người đặt câu hỏi việc chuyển đổi như vậy sẽ làm tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp và tạo thêm áp lực cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thế thì có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh không khi mà chi phí tăng?

Tôi nghĩ có thể ở một số thị trường khác thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn về cạnh tranh, trong đó có lý do do tăng chi phí.

Tuy nhiên ở thị trường Anh thì có một bộ phận lớn người tiêu dùng có thu nhập cao và sẵn sàng trả thêm tiền cho những sản phẩm xanh hơn, cho những sản phẩm sạch hơn.

Như vậy kể cả trường hợp giá bán sản phẩm cao hơn trước đây, chi phí sản xuất cao hơn trước đây, nhưng sản phẩm đó vẫn có thể được hoan nghênh tại thị trường Anh nhờ người tiêu dùng ở phân khúc cao hơn đấy và số lượng có thể không tăng nhiều nhưng giá vẫn cao hơn, vẫn có thể được người tin dùng Anh chấp nhận và hoan nghênh. Đấy là một cơ hội cho những doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu cao hơn đấy, mặc dù chi phí cao hơn.

Nguyễn Cảnh Cường
Ông Nguyễn Cảnh Cường - Nguyên Tham tán công sứ Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn những chia sẻ của ông. Tiếp theo, tôi xin được trao đổi với tiến sĩ Lê Huy Huấn, xin Ông cho biết các điểm nổi bật của xu hướng gia tăng, các chính sách thương mại xanh trên thế giới nói chung và của Anh nói riêng? Xu hướng này có tác động tích cực và tiêu cực như thế nào với tình hình giao thương giữa các thị trường?

TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam)

Cảm ơn câu hỏi rất thú vị. Tôi nghĩ rằng các chính sách thương mại xanh hiện nay không chỉ có tính thời sự mà là một xu hướng lâu dài. Nó có sức ảnh hưởng đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới. Thực tế, các chính sách thương mại xanh này đã và đang trở thành trụ cột, trọng tâm trong các chính sách kinh tế của các quốc gia trên thế giới.

Tôi muốn bắt đầu trao đổi bằng việc các động lực nào để xu hướng thương mại xanh này diễn ra thì có 3 yếu tố:

Thứ nhất, đó là áp lực từ biến đổi khí hậu;

Thứ hai là do nhu cầu của chính các quốc gia muốn tái cấu trúc nền kinh tế của mình theo hướng xanh phát triển bền vững hơn;

Thứ ba, các quốc gia đã và đang cam kết quốc tế rất mạnh mẽ, ví dụ như Thỏa thuận Paris chẳng hạn.

Hiện nay theo như quan sát của tôi đã có hơn 70 quốc gia đã đưa các tiêu chuẩn xanh vào trong các hoạt động thương mại của mình. Anh là một nền kinh tế hàng đầu thế giới, một nền kinh tế dẫn dắt. Vì vậy mà Anh cũng là một trong những quốc gia tiên phong trong việc xây dựng và thúc đẩy triển khai các chính sách thương mại xanh.

Trên phạm vi toàn cầu, tôi thấy rằng các điểm nổi bật của xu hướng chính sách xanh trên thế giới nói chung đi theo 3 điểm:

Nhóm chính sách thứ nhất là liên quan đến chính sách ưu đãi cho các sản phẩm xanh. Rất nhiều quốc gia thực hiện các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho các sản phẩm thân thiện với môi trường, ví dụ như năng lượng tái tạo, các sản phẩm từ ngành công nghiệp tái chế, công nghệ sạch.

Nhóm thứ hai đó là các nhóm chính sách liên quan đến quy tắc xuất xứ hoặc nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm có tiêu chuẩn xanh;

Nhóm thứ ba là nhóm mang tính bao trùm hơn. Đó là những chính sách liên quan đến phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Bởi vì hiện nay thì rất nhiều quốc gia, kể cả ở G7, EU rồi các quốc gia Châu Á cũng đã thực hiện các cam kết về giảm phát thải và trong đó có giảm rác thải trong các chuỗi cung ứng.

Còn đối với nước Anh, để thúc đẩy một nền kinh tế xanh thì nước Anh cũng đã có rất nhiều những chính sách cụ thể:

Theo tôi biết, thứ nhất Anh cũng thực hiện chiến lược Net zero đến năm 2050. Như vậy, tất cả hàng hóa xuất khẩu vào Anh cũng phải đảm bảo các tiêu chuẩn liên quan đến giảm phát thải.

Thứ hai, mặc dù áp dụng chưa đầy đủ nhưng Cơ chế CBAM cũng đặt ra yêu cầu cho các doanh nghiệp phải xác định, phải minh bạch lượng phát thải trên mỗi một đơn vị hàng hóa.

Thứ ba là điểm mà Anh cũng rất ưu tiên, đó chính là các hiệp định song phương như UKVFTA mà chúng ta đang đề cập với Việt Nam chẳng hạn. Những sản phẩm xanh như trong lĩnh vực nông nghiệp, trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, trong lĩnh vực dệt may, thủy sản là những lĩnh vực rất có thế mạnh để xuất khẩu vào Anh.

Về tác động tích cực và tiêu cực đến tình hình giao thương của các thị trường trên thế giới thì với các xu hướng gia tăng, các chính sách thương mại xanh này đã và đang tác động rất nhiều đến cấu trúc về trao đổi thương mại trên toàn cầu. Ở đây tác động đến cả chuỗi cung ứng cũng như các mô hình kinh doanh ở mỗi quốc gia.

Trước tiên tôi muốn nói về tác động tích cực. Có lẽ tác động tích cực đầu tiên là với xu hướng này, với xu thế này sẽ thúc đẩy tất cả các quốc gia và dưới cấp quốc gia là các doanh nghiệp sẽ chuyển đổi sang một nền sản xuất, tạo ra những sản phẩm xanh hơn, các quy trình sản xuất xanh hơn.

Đấy là một động lực và từ động lực này dẫn đến là các doanh nghiệp đáp ứng được điều đó, các quy chuẩn đó thì sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của mình trên phạm vi toàn thế giới, gia tăng thị phần của mình.

Cũng qua đó, từ cấp độ doanh nghiệp cho đến cấp độ quốc gia sẽ nâng cao thương hiệu, hình ảnh cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Nhưng ngược trở lại ở chiều tiêu cực tôi cho rằng chi phí tuân thủ là một vấn đề rất lớn. Bởi vì tất cả các sự chuyển đổi đều phải phải mất chi phí từ thời gian, tiền bạc và đối với Việt Nam chẳng hạn với khoảng hơn 80% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì các chi phí để chuyển đổi ban đầu, đầu tư ban đầu cho việc set up công nghệ xanh, sạch hơn cho các quy trình, nhân lực thực sự là một vấn đề rất khó khăn.

Thứ hai, nếu doanh nghiệp không thích ứng được thì sẽ bị bỏ lại trong cuộc chơi đó và sẽ mất thị phần, mất vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu và do vậy cũng mất đi lợi thế cạnh tranh.

Một điểm nữa, tôi thấy giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển thì các quốc gia phát triển họ có cơ hội để thực hiện các tiêu chuẩn này hơn. Trong khi đó những quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển như các quốc gia Châu Phi hay Việt Nam thì việc chúng ta phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao này thực sự khó khăn.

Một khía cạnh hơn nữa đó chính là tạo ra sự mất cân bằng và tạo ra khoảng cách ngày càng xa giữa các quốc gia.

Đấy là những tác động tích cực và tiêu cực mà theo tôi nghĩ tác động đến tình hình giao thương của các quốc gia trên toàn quốc tế.

Lê Huy Huấn
TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam)

BTV Lan Anh: Trước xu hướng này, Việt Nam đã có sự chuẩn bị và hoạt động như thế nào để hỗ trợ doanh nghiệp của Việt Nam đáp ứng các yêu cầu về kinh tế xanh, thương mại xanh của thị trường xuất khẩu nói chung, và thị trường Anh nói riêng?

TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam):

Câu hỏi này cũng rất thú vị. Bởi vì đây là vấn đề các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp của Việt Nam rất quan tâm trong thời gian qua và tôi đánh giá rằng Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất chủ động và đã có những bước đi khá rõ nét.

Tôi có thể lấy một vài dẫn chứng để chia sẻ cho nhận định của mình.

Thứ nhất, ở phạm vi các cơ quan quản lý, thông qua các chính sách thì Việt Nam đã và đang xây dựng nhiều những chính sách hướng đến chuyển đổi xanh, phục vụ cho cả quá trình thương mại xanh. Ví dụ như chúng ta có Chiến lược về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030; trong Chiến lược này có các mục tiêu rất cụ thể liên quan đến giảm phát thải carbon, liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững.

Chúng ta cũng đã và đang xây dựng thị trường carbon. Chúng ta cũng đang xây dựng các quy định cho việc trao đổi tín chỉ carbon trên thị trường này; chúng ta cũng có rất nhiều những chính sách để support (hỗ trợ) cũng như mang tính bắt buộc các doanh nghiệp phải có sự chuyển đổi cũng như đáp ứng các yêu cầu liên quan đến giảm phát thải trong quá trình sản xuất của mình; các chính sách liên quan thì chúng ta có Đề án quốc gia về kinh tế tuần hoàn...

Đấy chính là những chính sách mà các cơ quan quản lý chúng ta đã làm.

Thứ hai, ở khía cạnh các hỗ trợ kỹ thuật thì tôi thấy rằng Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, VCCI trong thời gian qua cũng tổ chức rất nhiều những hội thảo, tọa đàm, chương trình đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho doanh nghiệp để giúp họ nâng cao nhận thức về những xu thế mới của thị trường thương mại thế giới cũng như giúp họ tăng cường năng lực ứng phó với những sự thay đổi đó, chuyển đổi công nghệ cũng như thực hiện minh bạch hóa các quy trình sản xuất, chuỗi cung ứng của của các doanh nghiệp.

Thứ ba, chính sách liên quan đến hợp tác quốc tế tôi thấy rất được đẩy mạnh và chính nhờ các chính sách liên quan đến hợp tác quốc tế này nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam được hưởng lợi từ các sáng kiến của quốc tế.

Ví dụ như dệt may - một trong lĩnh vực chịu áp lực rất lớn về việc phải giảm phát thải để đáp ứng các tiêu chuẩn các thị trường quốc tế thì bằng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều doanh nghiệp dệt may của chúng ta đã có sự chuyển đổi trong quy trình sản xuất và tạo ra sản phẩm như: sử dụng các loại vải tái chế, sợi vải tái chế, quá trình nhuộm dùng ít nước đi hoặc không dùng đến nước…. Đấy chính là nhờ vào sự hỗ trợ quốc tế.

Còn từ phía doanh nghiệp cũng có những sự chủ động nhất định thông qua việc chủ động đào tạo, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp tham gia vào để đạt được các tiêu chuẩn quốc tế.

Như vậy tôi thấy rằng trong thời gian qua Việt Nam đã có một sự chuẩn bị rất tích cực, chủ động và và tôi tin rằng trong thời gian tới thì những kết quả, trái ngọt của sự chuẩn bị này sẽ được thấy rõ ràng hơn.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn TS. Lê Huy Huấn với những nhận định bao quát và phần nào cho thấy tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vào Anh.

Thế còn với các doanh nghiệp trực tiếp thì sao, thưa bà Nguyễn Thị Huyền. Bà có thể chia sẻ thị trường Anh giữ vị trí như thế nào và Vinasamex đã khai thác thị trường này ra sao kể từ khi UKVFTA có hiệu lực?

Bà Nguyễn Thị Huyền - CEO, Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex):

Doanh nghiệp của chúng tôi hiện tại đang sản xuất và xuất khẩu các loại gia vị và tinh dầu hữu cơ. Những thị trường chính mà Vinasamex tập trung đến có thị trường Mỹ và châu Âu là hai thị trường lớn nhất.

Đầu tiên tôi muốn đề cập đến thị trường châu Âu nói chung. Trước khi Anh tách ra khỏi châu Âu thì đây là thị trường mà chúng tôi đánh giá là một thị trường tiềm năng, tuy nhiên không phải là một thị trường dễ dàng để có thể đi vào? Tại sao lại như vậy? Bởi vì cái mốc mà các doanh nghiệp, các nhà nhập khẩu khi họ nhập khẩu hàng hóa từ các quốc gia vào họ đã đặt ra nền tảng cao hơn so với những thị trường khác.

Vì vậy khi một doanh nghiệp muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường này thì đầu tiên phải kiểm soát được chất lượng và phải đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với nền tảng yêu cầu của nhà nhập khẩu.

Khi chúng tôi xác định Châu Âu là thị trường mục tiêu thì vào khoảng năm 2013 chúng tôi bắt đầu xây dựng chuỗi giá trị và hợp tác với khoảng 1.000 hộ nông dân tại các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Lạng Sơn. Vào thời điểm đó thì khái niệm về phát triển bền vững hay phát triển xanh hoặc những khái niệm như hữu cơ còn rất mới ở Việt Nam và chúng tôi bắt đầu xây dựng mộ mô hình hợp tác theo chuỗi giá trị như vậy nhằm mục tiêu kiểm soát được chất lượng sản phẩm từ vùng nguyên liệu.

Khi mà chúng tôi làm điều đó và chúng tôi bắt đầu xin những chứng nhận quốc tế thì chúng tôi thấy được rằng thương hiệu của doanh nghiệp của chúng tôi đi lên và giống như một giấy thông hành giúp chúng tôi có thể đi được vào thị trường châu Âu.

Tiếp theo chúng tôi tìm được một vài khách hàng ở thị trường Anh thì thị trường Anh họ yêu cầu rất khó tính về mặt tiêu chuẩn chất lượng. Bên cạnh đó có rất nhiều doanh nghiệp, đối tác của chúng tôi họ mong muốn hợp tác với những nhà cung cấp mà hướng tới những tác động xã hội. Lúc này rất may mắn chúng tôi cũng tham gia một vài dự án của các tổ chức phi Chính phủ ở Việt Nam vào thời điểm đó là Oxfam của Hà Lan và Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) là hai dự án mà chúng tôi tham gia và thông qua những dự án này thì họ hỗ trợ chúng tôi làm việc sâu hơn với các tổ, nhóm nông dân và đào tạo về việc phát triển một mô hình kinh doanh theo hướng bền vững cộng với đáp ứng được tiêu chuẩn của những thị trường khắt khe ở Châu Âu.

Khi Hiệp định UKVFTA có hiệu lực thì chúng tôi cũng được hưởng lợi rất là nhiều từ hiệp định này. Bởi vì sản phẩm của chúng tôi là sản phẩm nông nghiệp và trước đây khi khách hàng nhập khẩu sản phẩm của chúng tôi thì họ sẽ phải trả khoảng 5 - 10% thuế, nhưng khi Hiệp định có hiệu lực thì khách hàng được hưởng miễn thuế. Đây là một lợi thế cạnh tranh giúp cho nông sản của Việt Nam sang những thị trường Châu Âu và đặc biệt là thị trường Anh có lợi thế hơn.

Thêm nữa, với mô hình mà chúng tôi đã định hình từ ban đầu là hợp tác theo mô hình chuỗi giá trị và kiểm soát chất lượng từ vùng nguyên liệu, đầu tiên chúng tôi xin được những chứng nhận như chứng nhận hữu cơ; ngoài ra chúng tôi có những chứng nhận như Fairtrade hay là Fair for Life là những chứng nhận thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hay thương mại công bằng và chứng nhận hay Rainforest Life là chứng nhận khai thác rừng bền vững và chúng tôi phải tuân thủ theo bảy nguyên tắc bảo tồn đa dạng sinh học thông qua mô hình kinh doanh của mình, khi mà khai thác những sản phẩm quế hồi ở vùng miền núi.

Khi chúng ta đáp ứng được điều đấy thì hiện tại chúng tôi rất tự hào, mặc dù sản lượng chúng tôi xuất khẩu vào thị trường Anh không phải quá lớn nhưng chúng tôi đã trở thành nhà cung cấp của rất nhiều thương hiệu nổi tiếng ở Anh. Ví dụ như mọi người đi qua các sân bay thì có hãng rượu Bombay Sapphire, hoặc vào trong các quán bar thì có những chai Bombay Sapphire màu xanh nước biển mà chúng ta khi uống cocktail thì các quán bar đấy họ sẽ phải dùng rượu Gin để pha cocktail và họ bán trên tất cả các quốc gia và tất cả các sân bay thì hiện tại chúng tôi đang là đơn vị cung cấp cho những hãng nổi tiếng như vậy.

Hoặc là những dòng trà thảo dược rất nổi tiếng ở Anh thì họ cũng uống rất nhiều các loại trà thảo dược thì chúng tôi cũng cung cấp quế hồi để họ làm những sản phẩm trà thảo dược đó.

Không thể định vị được sản lượng mình cung cấp đã đủ lớn hay chưa nhưng chúng tôi tự hào là đối tác cung cấp của rất nhiều thương hiệu nổi tiếng như vậy và đâu đó nó cũng khẳng định được vị thế cho nông sản của Việt Nam trên thị trường quốc tế và đặc biệt tại thị trường Anh.

Nguyễn Thị Huyền
Bà Nguyễn Thị Huyền - CEO, Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex)

BTV Lan Anh: Đó là những lợi thế khi UKVFTA có hiệu lực. Vậy xu hướng thương mại xanh của các thị trường xuất khẩu nói chung và của thị trường Anh nói riêng có tác động như thế nào tới hoạt động của sản xuất và phát triển thị trường của Vinasamex?  

Bà Nguyễn Thị Huyền - CEO, Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex):

Đối với Vinasamex như tôi đã chia sẻ từ ban đầu, chúng tôi tập trung vào những thị trường khó tính và thời điểm năm 2013 khi chúng tôi bắt đầu thì trước đó chúng tôi đã xuất khẩu sang những thị trường như Ấn Độ, Bangladesh hay Singapore là những thị trường rất dễ tính và không hề yêu cầu về mặt tiêu chuẩn chất lượng hay định hướng phát triển bền vững. Chúng tôi bán sản lượng rất nhiều nhưng mà như ông Cường chia sẻ, chúng ta không cần tập trung vào sản lượng mà chúng ta cần tập trung vào chất lượng.

Chính vì vậy chúng tôi tập trung vào chất lượng hàng hóa và chúng tôi nâng cao giá trị sản phẩm lên. Khi mà chúng tôi làm được điều đó thì hiện tại khi chúng tôi xuất khẩu vào thị trường Châu Âu hay vào thị trường Anh thì hàng chúng tôi bán luôn luôn cao hơn khoảng 20% so với giá sản phẩm thông thường trước đây và có rất nhiều khách hàng của chúng tôi sẵn sàng trả thêm 10% vào tiền mà chúng tôi bán và 10% đó chúng tôi trích vào một quỹ gọi là Quỹ Fairtrade hoặc Fair for life để chúng tôi dùng cho các hoạt động cộng đồng, ví dụ như xây nhà tình thương hay xây trường học cho các trẻ em miền núi hay làm đường cho địa phương và đặc biệt là chúng tôi tập trung vào việc đào tạo cho khoảng 3.000 hộ nông dân tại các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn và Bắc Cạn để giúp họ hiểu về các tiêu chuẩn phát triển bền vững và tiêu chuẩn cao.

Về định hướng trong tương lai của chúng tôi, với một thị trường, nền kinh tế ảnh hưởng bởi Covid 19 và đến nay rất nhiều doanh nghiệp cũng vẫn đang lao đao. Nền kinh tế của toàn thế giới cũng vậy. Chúng tôi thấy được rằng trong thách thức đó thì chúng tôi có những cơ hội.

Khi mà chúng ta ảnh hưởng bởi đại dịch và sức khỏe của chúng ta bị ảnh hưởng quá nhiều thì mọi người lúc này mới quay ra quan tâm đến sức khỏe. Chính vì vậy những sản phẩm chúng tôi đã làm được organic thì bây giờ chúng tôi sẽ phát triển thêm từ sản phẩm thô đến tinh dầu đến các loại bột gia vị. Trong tương lai chúng tôi định hình sẽ sản xuất thêm những sản phẩm là tinh chất từ tinh dầu. Khi chiết xuất ra những loại tinh chất từ tinh dầu này thì chúng tôi sẽ bán cho những công ty dược phẩm để họ làm những loại thực phẩm chức năng, ví dụ như chúng ta đi Hàn Quốc hay Mỹ, Châu Âu, chúng ta mua những loại thuốc chống đột quỵ hay những loại thuốc dạ dày thì trong đó nguyên liệu có quế, hồi, nhưng mà hầu hết chúng ta không biết. Trong khi sản phẩm ở Việt Nam của chúng ta có tính dược rất cao và chính điều đó thì chúng tôi muốn làm mạnh và đi sâu hơn nữa về những sản phẩm này.

Vì thế chúng tôi cũng đầu tư những công nghệ, máy móc hiện đại hơn để có thể tạo ra được những loại tinh chất bán trực tiếp cho những công ty dược phẩm. Đặc biệt trong hoa hồi có một thành phần là acid shikimic là một thành phần để chế biến ra thuốc Tamiflu chống cúm mà khi bị cúm chúng ta hay uống; nguyên liệu chính của nó là từ hoa hồi và nếu thiếu nguyên liệu hoa hồi thì các công ty họ phải dùng hóa chất tổng hợp để ph tạo ra chất này. Đây là một tiềm năng rất lớn mà chúng tôi cũng sẽ đầu tư công nghệ để chiết xuất ra tinh chất này để có thể cung cấp trong tương lai.

Đặc biệt hơn nữa chúng tôi sẽ tiếp tục mở rộng mô hình chuỗi giá trị của chúng tôi, thay vì bây giờ chúng tôi đang hợp tác với khoảng 3.000 hộ nông dân và chúng tôi có khoảng 4.200 hecta đạt tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ quốc tế và những tiêu chuẩn phát triển bền vững khác thì chúng tôi kì vọng trong khoảng ba năm nữa chúng tôi sẽ hợp tác và hỗ trợ cho khoảng 10.000 hộ nông dân với diện tích mở rộng là 10.000 hecta để đạt được những tiêu chuẩn quốc tế và có thể giúp cho những hộ nông dân này tiếp tục tăng sinh kế. Khi họ hợp tác với chúng tôi cách đây mười năm thì một hộ thu nhập khoảng 250$ (độ tầm xấp xỉ 1.100.000/năm) thì đến thời điểm hiện tại một hộ thu nhập được khoảng một trăm hai mươi triệu đồng cho một hecta mỗi năm, tức tăng lên rất nhiều lần.

Chúng tôi cũng hy vọng rằng thông qua mô hình của chúng tôi sẽ tạo thêm công ăn việc làm cũng như giúp cho người dân tăng thêm thu nhập nhiều hơn nữa.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn bà về những chia sẻ thú vị về các kế hoạch sắp tới của Vinasamex. Thưa ông Nguyễn Cảnh Cường, sau ba năm thực thi UKVFTA sẽ có những bước chuyển mới. Ông có thể cho biết những lưu ý gì với doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm những cơ hội từ đáp ứng tiêu chuẩn thương mại xanh và phát triển bền vững của thị trường Anh và đồng thời tận dụng triệt để Hiệp định UKVFTA.

Ông Nguyễn Cảnh Cường - Nguyên Tham tán công sứ Thương vụ Việt Nam tại Vương quốc Anh:

Tôi cũng đã nói từ đầu về sự nhạy cảm và sự quan tâm đối với giá trị phát triển bền vững của người tiêu dùng Anh và cả các nhà phân phối Anh. Họ rất coi trọng trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và chuỗi cung ứng minh bạch. Đấy là một trong những một trong ba đặc điểm của thị trường Anh và tôi quan sát trong thời gian làm việc ở London.

Đặc điểm thứ hai đấy là tiêu chuẩn nhập khẩu cao, tôi nghĩ chị Huyền đã nói và chị Huyền là một doanh nhân đã có kinh nghiệm thực chiến không những tại thị trường Anh mà còn ở các thị trường cao cấp khác.

Thị trường Anh là một trong những thị trường có tiêu chuẩn có lẽ cao nhất thế giới về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, gần đây là một trong những quốc gia tiên phong về chống biến đổi khí hậu. Những quy định về chống biến đổi khí hậu đã được chuyển hóa vào trong chính sách thương mại của Vương quốc Anh và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thâm nhập thị trường.

Trong nền kinh tế của chúng ta có rất nhiều doanh nghiệp không vượt qua được những yêu cầu mới, vì không đủ nguồn lực, không đủ tài chính, không đủ nhân lực không đủ chuyên môn để vượt qua. Tuy nhiên, những doanh nghiệp tiên phong, những doanh nghiệp hàng đầu như doanh nghiệp của chị Huyền đây sẽ vượt qua, sẽ phát triển được và những doanh nghiệp đấy như chị Huyền đã nói, chi phí tăng lên nhưng giá bán cao lên hơn 20% so với so với mức giá trung bình. Những doanh nghiệp đầu đàn đấy sẽ dần dần kéo theo các doanh nghiệp khác và dần dần có một giá trị gián tiếp và lan tỏa và sẽ đạt được sự tín nhiệm của doanh nghiệp Anh, của người tiêu dùng Anh về giá trị phát triển bền vững và giá trị lan tỏa đó sẽ giúp cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường Anh ngày càng nhiều.

Đặc điểm thứ ba, đấy là sự thay đổi trong ưu tiên thì tôi thấy người tiêu dùng Anh đã và đang ngày càng ưu tiên các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như thực phẩm hữu cơ, thời trang bền vững và bao bì tái chế; những sản phẩm này lại càng ngày càng được khuyến khích tiêu dùng hơn là những sản phẩm truyền thống khác, mặc dù những sản phẩm này thường có chi phí cao hơn.

Xu hướng tiêu dùng bền vững đã, đang trở thành một xu hướng càng ngày càng mạnh và đã được cả Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng và cộng đồng dân cư ở Anh coi như là một trong những giá trị, yêu cầu rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Đấy là một đặc điểm thị trường mà doanh nghiệp Việt Nam cần phải lưu ý, vừa là thách thức, vừa là cơ hội.

Trên cơ sở những đặc điểm thị trường tôi vừa nói thì tôi xin gợi ý một số những lưu ý doanh nghiệp Việt Nam có thể tham khảo như sau:

Thứ nhất là phải xây dựng thương hiệu xanh. Tôi muốn nhắc lại kinh nghiệm của chị Huyền, đúng là lúc đầu sẽ gặp khó khăn, làm thế nào để xin được cấp các loại chứng chỉ xanh mà là chứng chỉ quốc tế chứ không phải chứng chỉ của Việt Nam. Chứng chỉ của Việt Nam có khi chỉ có giá trị ở Việt Nam thôi, còn nếu muốn sang Anh thì phải có chứng chỉ quốc tế nhưng mà mình không có quyền lựa chọn chứng chỉ Việt Nam hay chứng chỉ quốc tế mà chỉ có chứng chỉ quốc tế mới có giá trị thì xuất khẩu, đặc biệt là những thị trường cao cấp như thị trường Anh.

Việc xây dựng, thương thương thương rau xanh ấy là cái lưu ý mà doanh nghiệp không không thể coi nhẹ.

Lưu ý thứ hai, đấy là đầu tư vào công nghệ xanh đây cũng là một thách thức và khó khăn cho các doanh nghiệp. Đầu tư công nghệ mới thường thường là đắt hơn công nghệ cũ, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ nguồn lực để làm. Tuy nhiên việc đầu tư công nghệ xanh cũng là một xu hướng bắt buộc phải làm, không sớm thì muộn cũng phải làm bởi nếu không làm sẽ bị bỏ lại, sẽ bị người mua hàng từ chối, sẽ bị mất thị phần, thế thì phải cố mà làm. Trong khó khăn này tôi thấy các doanh nghiệp cũng không đến nỗi bị bỏ rơi. Bởi vì Chính phủ hỗ trợ, không phải chỉ có Chính phủ Việt Nam mà Chính phủ Anh cũng hỗ trợ. Chính phủ Anh khi chủ trương thúc đẩy một nền kinh tế xanh, một nền thương mại xanh họ cũng kèm theo những công cụ hỗ trợ, chứ không phải họ chỉ có hô hào suông, vận động suông.

Như vậy, với việc đầu tư chuyển đổi vào công nghệ xanh sẽ có cơ hội là những quỹ đầu tư của Anh sẽ ưu tiên cho những dự dự án xanh. Dự án xanh hiểu một cách ngắn gọn là những dự án phát thải thấp và khi mà người Anh bắt đầu có ý tưởng này kia, họ hay dùng một khái niệm nền kinh tế carbon thấp (low carbon economy) thì những dự án phát thải thấp đi sẽ được ưu tiên và sẽ được các quỹ đầu tư hay các ngân hàng đầu tư của Anh ưu tiên xem xét. Thậm chí tôi biết có những tổ chức tài chính tín dụng hay các tổ chức về bảo hiểm tín dụng đầu tư, họ chỉ nghe về những dự án đạt được tiêu chí phát thải thấp; còn nếu là những dự án phát thải cao là họ không nghe, mời các bạn đi tìm nguồn vốn ở chỗ khác. Nghĩa là chính sách của họ ưu tiên các dự án xanh và không quan tâm đến dự án không xanh hay nếu nói theo ngôn ngữ màu sắc đối với dự án nâu là không xem xét.

Lưu ý thứ ba, đấy là hiểu rõ thị hiếu. Tôi đã nói rồi, đúng là nghiên cứu nhu cầu của văn hóa tiêu dùng của thị trường Anh để điều chỉnh sản phẩm và chiến lược marketing. Ở đây tôi cũng muốn nói kỹ hơn về thị hiếu của người tiêu dùng Anh.

Tuy vẫn là một nước châu Âu nhưng nước Anh hay người Anh khác với phần còn lại của Châu Âu. Thế thì doanh nghiệp mình phải điều chỉnh sản phẩm và điều chỉnhchiến lược marketing theo thị hiếu của người Anh và một trong những điều chỉnh về chiến lược marketing tôi cho rằng doanh nghiệp Anh và người tiêu dùng Anh kỳ vọng và trông đợi ở đối tác nước ngoài, ở các nhà cung cấp nước ngoài có thể cung cấp được thông tin về sản phẩm, cung cấp được thông tin về tiêu chuẩn sản phẩm một cách dễ dàng nhất. Họ trông chờ đối tác của mình sẽ xây dựng được một website có đầy đủ những thông tin như tôi vừa nói để họ không phải đi hỏi ở đâu khác, không phải đi tìm đâu khác.

Nhân nói về công cụ marketing, rất nhiều website của nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt được cái mức độ kỳ vọng mà chưa đạt được mức độ trông đợi của các doanh nghiệp Anh. Ví dụ tôi đã từng tiếp cận các nhà nhập khẩu Anh để giới thiệu các sản phẩm của Việt Nam, sau khi giới thiệu xong họ đang ngồi cùng với tôi, họ đã check rất nhanh. Sau khi có tên công ty, họ check website của công ty đấy thì họ bảo không thấy tiêu chuẩn của sản phẩm, doanh nghiệp mà ông đang giới thiệu sản xuất sản phẩm này theo tiêu chuẩn gì?...

Nhân đây tôi chia sẻ với các quý vị khán giả, nếu quý vị đưa các sản phẩm của mình lên website với mục tiêu tiếp cận thị trường Anh thì cố gắng đưa được các tiêu chuẩn Anh. Người Anh, doanh nghiệp Anh thấy rằng sản phẩm của Việt Nam sản xuất theo tiêu chuẩn Anh là họ thích lắm. Tiêu chuẩn Anh là một trong những niềm tự hào của người Anh, một trong những cơ sở gốc rễ của hầu hết các bộ tiêu chuẩn quốc gia khác.

Tận dụng được mạng lưới phân phối của đối tác địa phương và và hiểu rõ hơn về quy định thị trường. Trong một biển mênh mông về các quy định, những điều chỉnh rất nhiều, các doanh nghiệp ngồi ở Việt Nam cũng khó có thể theo sát được những biến đổi của chính sách, quy định đấy nhưng các đối tác địa phương sẽ nắm vững hơn. Khi mà mình hợp tác với các đối tác địa phương thì các đối tác địa phương đấy sẽ giúp mình cập nhật những điều chỉnh về chính sách và quy định của thị trường.

tọa đàm

BTV Lan AnhXin cảm ơn ông Cường và câu hỏi tiếp theo tôi xin gửi tới bà Nguyễn Sơn Trà. Trước triển vọng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Vương quốc Anh, theo bà có những điểm gì đáng chú ý với các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là lộ trình cam kết về thương mại xanh và phát triển bền vững.

Bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:

Các cam kết liên quan đến thương mại và phát triển bền vững trong Hiệp định UKVFTA như tôi đã trình bày, không có lộ trình chuyển đổi để thực hiện mà tất cả đều phải thực hiện ngay khi thời điểm có hiệu lực.

Thông thường trong một FTA, nếu những cam kết nào cả hai bên đều cảm thấy khó, không thể thực hiện ngay mà cần có một quá trình nhất định để sửa đổi, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ có lộ trình chuyển đổi cho thực hiện những cam kết như vậy.

Tuy nhiên trong khuôn khổ Hiệp định UKVFTA, với Chương 13 về thương mại phát triển bền vững, cả hai bên đều cho rằng những cam kết, những quy định này rất quan trọng để thúc đẩy cân bằng giữa thương mại với các yếu tố về phát triển bền vững. Vì vậy hai bên đã đưa ra những cam kết rất mạnh mẽ và không có lộ trình chuyển đổi cho việc thực hiện những cam kết đó mà sẽ phải thực hiện ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Trong thời gian qua cũng như sắp tới, cả hai bên Chính phủ Việt Nam và UK sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai thực hiện đầy đủ và hiệu quả những cam kết có trong Chương thương mại và phát triển bền vững, ví dụ những nội dung liên quan đến thực hiện những Công ước, những hiệp định đa phương về môi trường mà hai bên đã và đang tham gia, thực hiện các cam kết liên quan đến phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững, hợp tác chống lại các biện pháp đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU)…

Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy trên thực tế, về phía thị trường của Vương quốc Anh, như các diễn giả đã nói, họ rất coi trọng các yếu tố liên quan đến xanh, phát triển bền vững.

Bên cạnh những cam kết có ở trong khuôn khổ Hiệp định UKVFTA thì Chính phủ Anh cũng trong thời gian vừa rồi họ cũng đã ban hành một số các biện pháp, những chính sách để thúc đẩy hơn nữa yếu tố về thương mại và phát triển bền vững áp dụng đối với hàng hóa được sản xuất tại Anh cũng như các hàng hóa được nhập khẩu từ các nước khác vào thị trường Anh.

Ví dụ, họ ban hành các quy định áp thuế đối với bao bì nhựa, tức là phải đóng thuế nếu như sản xuất hoặc nhập khẩu thành phần đóng gói nhựa chứa ít hơn 30 % nhựa tái chế. Gần đây nhất, họ ban hành các quy định cấm đối với hàng hóa mà trong quá trình sản xuất có thể gây hại đối với tài nguyên rừng hoặc dẫn tới việc phá rừng.

Những quy định như vậy cũng ảnh hưởng rất nhiều đối với việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Vương quốc Anh.

Bởi vì trong thời điểm hiện tại theo xu hướng của không chỉ Anh mà trên thế giới, đặc biệt những nước phát triển không chỉ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm cuối cùng mà còn quan tâm đến quy trình sản xuất ra hàng hóa đấy có đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường hay không; có bảo đảm các điều kiện cơ bản của người lao động hay không.

Ví dụ thủy sản của chúng ta xuất khẩu sang thị trường UK, họ sẽ không chỉ quan tâm đến chất lượng thủy sản đó như thế nào, có dư lượng thuốc kháng sinh vượt quá mức cho phép hay không mà họ còn quan tâm đến truy xuất nguồn gốc hàng hóa, thủy sản đấy có phải được đánh bắt từ nguồn bất hợp pháp hay không.

Với những quy định như vậy chúng ta sẽ phải đặt ra một vấn đề rất lớn cho doanh nghiệp là họ sẽ phải để ý hơn rất nhiều đối với những quy định như vậy để có những điều chỉnh phù hợp trong quy trình sản xuất của mình để làm sao đáp ứng được các yêu cầu của nước nhập khẩu khi mà chúng ta xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn bà và câu hỏi tiếp theo tôi xin gửi đến tiến sĩ Lê Huy Huấn. Theo ông, trước xu hướng áp dụng chính sách thương mại xanh của anh ngày càng gia tăng trong thời gian tới thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội và thách thức như thế nào? Và ông có khuyến nghị gì về chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội từ xu hướng này?

TS. Lê Huy Huấn - Điều phối viên Chương trình Tăng trưởng Xanh và BĐKH toàn cầu Việt Nam (CCG Việt Nam):

Tôi nghĩ rằng các câu trả lời trước của chị Huyền hay của anh Cường đã chia sẻ rất nhiều về những cơ hội hay là thách thức đối với các doanh nghiệp.

Tôi chỉ nhấn mạnh thêm về sự chủ động thích ứng của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh này như thế nào.

Tôi thấy rằng đối với những doanh nghiệp lớn đã và đang rất chủ động trong việc thích ứng với những sự thay đổi của chính sách thương mại xanh cũng như chủ động trong việc xây dựng các quy trình sản xuất, làm sao đáp ứng được các tiêu chuẩn toàn cầu. Ví dụ như doanh nghiệp của chị Huyền. Hay Vinamilk chẳng hạn, hay trong lĩnh vực thủy sản như chị Trà có đề cập, Tập đoàn Minh Phú đã và đang xây dựng những hoạt động để đảm bảo được các tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ ở đây là tiêu chuẩn về ESG, Vinamilk tuyên bố có những trang trại trung hòa carbon và những nhà máy trung Hòa carbon. Như vậy những doanh nghiệp lớn cũng đang rất chủ động.

Tuy nhiên, sự chủ động này rất khác biệt giữa các doanh nghiệp, tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, tùy thuộc vào ngành nghề của doanh nghiệp, tùy thuộc vào nguồn lực của doanh nghiệp. Ở chiều ngược lại các doanh nghiệp nhỏ thực sự đang gặp những thách thức về nguồn tài chính, cách để đạt được các tiêu chuẩn hay để làm sao minh bạch hóa được toàn bộ chuỗi sản xuất của mình. Thực sự các doanh nghiệp gặp khó ở vấn đề này vì các doanh nghiệp chuỗi cung ứng đấy đi qua rất nhiều bên và các doanh nghiệp chỉ cố gắng để làm tốt phần cuối cùng là sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng của mình. Còn quá trình trước không thể minh bạch hay quá trình số hóa cũng chưa làm được.

Ví dụ ở Liên minh Châu Âu (EU), đối với một số sản phẩm công nghiệp CBAM phải minh bạch hóa lượng phát thải hay đạo luật chống phá rừng (EUDR), yêu cầu tất cả sản phẩm nông nghiệp trong phạm vi của đạo luật đó phải chia sẻ rõ ràng thông tin về nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa và tất cả quá trình sản xuất đấy có ảnh hưởng, làm suy thoái, làm mất rừng hay không. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực này gặp rất nhiều khó khăn bởi chuỗi cung ứng của chúng ta rất dài, trong khi doanh nghiệp không thể nắm hết được các thông tin. EU đang phải lùi thời hạn áp dụng, những nền kinh tế khác như Mỹ cũng sẽ sớm áp dụng những điều này và đấy là những thách thức.

Trong tương lai, tôi muốn khẳng định chắc chắn các xu hướng, các chính sách này ngày càng trở nên chặt chẽ hơn, sẽ đi theo các hạng mục, ví dụ như phải giảm phát thải hoặc carbon thấp trong quá trình sản xuất như anh Cường đã đề cập, thứ hai là truy xuất nguồn gốc và minh bạch quy trình chuỗi sản xuất hàng hóa, đấy là yêu cầu chung đối với thị trường Anh. Thậm chí với quan sát của tôi, Anh sẽ yêu cầu thêm những quá trình sản xuất đó có sử dụng năng lượng tái tạo hay không, có đạt được các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn của Anh hay không. Đấy là xu hướng chắc chắn sẽ càng ngày chặt chẽ hơn, các yêu cầu càng khắt khe và cao hơn. Do vậy các giải pháp sẽ phải là các giải pháp đồng bộ.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn ông. Chúng ta vừa lắng nghe những chia sẻ thì áp dụng xu hướng phát triển xanh là yếu tố tất yếu của thương mại toàn cầu và được coi là con đường bắt buộc chứ không phải là lựa chọn nữa.

Thưa bà Nguyễn Thị Huyền, trong quá trình phát triển sản phẩm đáp ứng với thương mại xanh của Vinasamex chắc hẳn sẽ có rất nhiều thuận lợi và khó khăn. Vậy bà có thể chia sẻ thêm về vấn đề này? Vinasamex dự định mở rộng phát triển sản phẩm thương mại xanh sang Anh trong thời gian tới như thế nào? Và chúng ta sẽ có kiến nghị gì để tận dụng được hết cơ hội này?

Bà Nguyễn Thị Huyền – CEO, Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam (Vinasamex):

Có rất nhiều thuận lợi như tôi đã chia sẻ từ trước, khi chúng ta đi theo một mô hình phát triển bền vững và đặc biệt hướng tới những tiêu chuẩn cao sẽ dễ dàng có thể tiếp cận khách hàng và bán hàng.

Thứ hai là có thể bán hàng với giá thành cao hơn. Ngoài ra nó sẽ giúp cho doanh nghiệp đấy khẳng định được vị thế, thương hiệu của mình trên trường quốc tế. Nếu như chúng ta cứ nói sản phẩm của tôi rất tốt nhưng không có gì để minh chứng thì khách hàng sẽ không tin. Chúng tôi nhìn thấy được điều đó và chúng tôi quyết tâm sẽ cần phải đầu tư, coi đây là một khoản đầu tư dài hạn và sẵn sàng bỏ chi phí ra để xây dựng chuỗi giá trị và làm sao xin được những chứng nhận để minh chứng cho khách hàng.

Chi phí cao đôi khi rất khó cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể đầu tư. Một số doanh nghiệp có thể tiếp cận bằng một cách khác hoặc một số người chủ doanh nghiệp có thể chưa tiếp cận được về mặt thông tin, yêu cầu của thị trường. Ví dụ rất nhiều doanh nghiệp tạo ra một sản phẩm tốt và có thể kiểm soát được chất lượng, đảm bảo được truy xuất nguồn gốc hoặc minh bạch hóa về mặt quy trình, nhưng họ lại không biết rằng xin chứng nhận gì cho thị trường này hay tiếp cận thị trường này như thế nào, hay marketing ra sao, bị hạn chế về mặt thông tin chứ không phải rằng doanh nghiệp không sẵn sàng, có thể họ đã sẵn sàng nhưng họ chưa có đủ nguồn lực về mặt thông tin để họ xem sẽ bắt đầu từ đâu. Hoặc một số doanh nghiệp đã có thông tin, cũng có nguồn tài chính nhưng lại thiếu về mặt kỹ thuật. Bởi vì không phải dễ dàng khi làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và khi làm việc với người nông dân.

Trước đây, khi chúng tôi ký hợp đồng mua 5 tấn hàng nhưng có một doanh nghiệp khác đến trả giá cao hơn 500 đồng thôi là người dân bán đi luôn. Vậy thì doanh nghiệp có thể theo một mô hình bền vững và gắn kết với nhau hay không? Đó là câu chuyện về thấu hiểu, câu chuyện tạo niềm tin, uy tín và sự kiên trì. Tôi nghĩ rằng không phải là người ta không muốn mà có thể là có quá nhiều rào cản. Đôi khi người ta có tài chính nhưng có quá nhiều rào cản và mất quá nhiều nguồn lực về con người, về thời gian.

Về những thách thức và khó khăn khi chúng tôi phát triển theo mô hình phát triển xanh và phát triển bền vững, đầu tiên là câu chuyện làm việc với người nông dân và lấy được niềm tin của họ.

Thứ hai, khi mà chúng tôi sang một mô hình mới thì chúng tôi coi như là thay đổi hoàn toàn triết lý kinh doanh và chúng tôi phải đầu tư nguồn lực, thời gian và tiền bạc, tài chính vào đó. Đôi khi vào thời điểm đấy mọi thứ rất mới mà mình không biết là mình đi đúng đường hay không và nhiều lúc chúng tôi cảm thấy muốn bỏ cuộc bởi vì quá mệt mỏi. Khi bỏ ra rất nhiều chi phí nhưng chỉ mới bán được cho một, hai khách hàng và sản lượng vẫn còn nhỏ, lúc đó mình cảm thấy nản quá mà không biết là mình đi có đúng đường hay không. Trong khi trước đây mình có thể bán rất nhiều.

Vậy thì liệu rằng nó có xứng đáng để mình làm hay không?

Khi chúng tôi bắt đầu mở rộng và tăng thêm số lượng khách hàng và thấy được xu hướng của thế giới, đặc biệt các nhà nhập khẩu trên những thị trường khó tính ngày càng tăng, chúng tôi nhận thấy mức độ yêu cầu khắt khe về mặt tiêu chuẩn chất lượng và những chứng nhận quốc tế không chỉ là  điều kiện cần hay đủ nữa mà nó là điều kiện bắt buộc để mình có thể sinh tồn, giúp mình có thể cạnh tranh với những doanh nghiệp khác ở những thị trường khác.

Ví dụ sản phẩm của chúng tôi, về Hồi thì có Việt Nam và Trung Quốc, Quế thì có đến 5 quốc gia Việt Nam, Trung Quốc, Sri Lanka, Indonesia và Madagascar. Nhưng rất nhiều quốc gia không hề biết Hồi có nguồn gốc ở Việt Nam và đấy là những thách thức tiếp theo của chúng tôi, là khi đi ra ngoài thị trường thì Việt Nam chúng ta không hề có thương hiệu và bắt buộc phải khẳng định chất lượng của mình để bắt đầu xây dựng nền móng thương hiệu của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế và đôi khi mình cảm thấy cô đơn. Bởi những doanh nghiệp ở những nước khác có hiệp hội lớn, mạnh và có uy tín. Ở Việt Nam còn yếu về mặt tập hợp và cùng nhau đi ra biển lớn, đó là thách thức thứ ba.

Thách thức tiếp theo là tìm kiếm được khách hàng. Khi đi vào thị trường Anh thì có một số kênh như hội chợ hay các trang web chúng tôi có thể tìm kiếm được khách hàng. Tuy nhiên phải bỏ ra rất nhiều chi phí về marketing hay tham gia hội chợ thì mới có thể đến đây để tìm kiếm khách hàng. Từ đó chúng tôi có những kiến nghị: Các cơ quan chính quyền Việt Nam, đặc biệt Bộ Công Thương hoặc các đơn vị tham tán thương mại tại các quốc gia hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại để có thể tham gia những hội chợ tiềm năng thực sự.

Thứ hai, chúng tôi hy vọng rằng các cơ quan chính quyền sẽ hỗ trợ trong việc tuyên truyền, truyền thông về các khái niệm như phát triển bền vững hay phát triển xanh, hay những tiêu chuẩn cao như organic, những sản phẩm hữu cơ để các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận thông tin và họ sẵn sàng chuyển đổi từ một mô hình truyền thống sang mô hình cao hơn và từ đó sẽ có rất nhiều doanh nghiệp đi cùng với nhau chứ không chỉ vài doanh nghiệp như hiện tại chúng tôi đang đi.

Chúng tôi cũng hy vọng sẽ có những chính sách dành cho những doanh nghiệp hướng tới mô hình phát triển bền vững. Ví dụ chúng tôi được tiếp cận với nguồn vốn vay của BIDV hỗ trợ cho mô hình theo chuỗi giá trị với lãi suất thấp, trong tương lai chúng tôi cũng hy vọng những ngân hàng khác cũng sẽ ưu tiên cho những mô hình hướng tới phát triển xanh để các doanh nghiệp có thể có thêm nguồn tài chính để sẵn sàng đầu tư vào hệ thống máy móc, công nghệ hay hướng tới một mô hình kiểm soát được tiêu chuẩn chất lượng và đảm bảo truy xuất nguồn gốc.

Đặc biệt như chúng tôi khi làm truy xuất nguồn gốc phải đầu tư những phần mềm để đảm bảo truy xuất nguồn gốc và đến bây giờ nó vẫn đang hoạt động và tiếp tục update (cập nhật) chứ chưa thực sự hoàn thiện 100% như khách hàng yêu cầu, nhưng tất cả những lô hàng chúng tôi xuất khẩu đều đảm bảo truy xuất nguồn gốc và minh bạch trong quá trình sản xuất của mình.

Chúng tôi cũng hy vọng các cơ quan chính quyền sẽ có những công cụ hỗ trợ cho doanh nghiệp chuyển đổi số để đảm bảo tất cả những nhật ký sản xuất của mình hoặc nhật ký vùng nguyên liệu khi mà người dân chăm sóc hay trồng cây để cung cấp cho khách hàng những thông tin một cách nhanh chóng và minh bạch, khi đó chắc chắn chúng ta sẽ có những cơ hội cạnh tranh.

BTV Lan Anh: Xin cảm ơn bà về những chia sẻ về những giải pháp và tận dụng cơ hội từ thương mại xanh và câu hỏi cuối cùng tôi xin gửi tới bà Nguyễn Sơn Trà. Về phía Bộ Công Thương, trong thời gian tới chúng ta sẽ có những hỗ trợ như thế nào cho các doanh nghiệp về chính sách xanh và phát triển bền vững để tận dụng cơ hội tối đa từ FTA nói chung và UKVFTA nói riêng, thưa bà?

Bà Nguyễn Sơn Trà, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:

Qua chia sẻ các diễn giả, tôi nhận thấy Công ty Xuất nhập khẩu Quế Hồi Việt Nam của chị Nguyễn Thị Huyền có cảm giác doanh nghiệp mình khi đi ra biển lớn cảm thấy hơi cô đơn, lạc lõng bởi so với các những nước khác họ có rất nhiều sự hỗ trợ của các hiệp hội và dường như phía Việt Nam phần hỗ trợ đấy chưa được cụ thể, chưa thỏa đáng.

Hay chia sẻ của ông Nguyễn Cảnh Cường về việc kiến nghị trong thời gian tới Bộ Công Thương nên tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp một cách thiết thực hơn như hỗ trợ tham gia các hội chợ nước ngoài, giúp đỡ cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam có thể đến gần hơn được với các thị trường nhập khẩu.

Chúng tôi cho rằng những chia sẻ như vậy rất đáng giá và thực tế trong thời gian qua Bộ cũng đã triển khai một loạt các biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp theo hướng để làm sao thúc đẩy thương mại xanh và phát triển bền vững.

Thời gian qua Bộ đã phối hợp với một số đơn vị có liên quan triển khai các chương trình tập huấn, đào tạo cho doanh nghiệp chuyên sâu về FTA không chỉ trong những lĩnh vực chúng ta vẫn thường nghe nói đến, như về thuế quan hay về thương mại hàng hóa nói chung mà chúng tôi tập trung vào đào tạo về những nội dung liên quan đến phát triển bền vững, cụ thể trong các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa thương mại với lao động hay các yếu tố khác về phát triển bền vững để làm sao giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được một cách cụ thể hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn những cam kết đã có được từ các FTA trong thời gian vừa qua, từ đó giúp doanh nghiệp tận dụng được tốt hơn những cam kết đó và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.

Đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quy trình sản xuất để làm sao đáp ứng được các yêu cầu ngày càng khắt khe hơn của các thị trường nước ngoài, đặc biệt các thị trường phát triển như Vương quốc Anh, Bộ Công Thương cũng đang xây dựng mô hình hệ sinh thái theo từng ngành. Ví dụ với ngành quế hồi, chúng tôi đang xây dựng một hệ sinh thái để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành quế hồi tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn sang các thị trường, các nước đối tác.

Trong hệ sinh thái đấy sẽ có mối liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan xây dựng chính sách thương mại và các cơ quan cung cấp thông tin, các thương vụ của Việt Nam tại các thị trường nước ngoài, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp theo chuỗi sản xuất doanh nghiệp cung cấp các nguyên liệu đầu vào, các doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, sản phẩm cuối cùng để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.

Trong chuỗi hệ sinh thái đó sẽ có những trao đổi, chia sẻ thông tin, hỗ trợ lẫn nhau theo từng lĩnh vực và tạo ra một sức mạnh lớn, những bàn đạp vững chắc để giúp doanh nghiệp có thể tự tin hơn trong việc đem hàng hóa của mình mang ra thị trường quốc tế bảo đảm đáp ứng được các tiêu chuẩn, các yêu cầu về thương mại và phát triển bền vững sang các thị trường nước ngoài.

Đó là một số biện pháp trong thời gian qua Bộ Công Thương đã và đang tập trung triển khai và chúng tôi hi vọng trong thời gian tới, năm 2025, những biện pháp đó được lan tỏa hơn nữa sang nhiều ngành hàng khác nhau để có sự lan tỏa, giúp đỡ nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hơn trong việc xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường Vương quốc Anh.

BTV Lan AnhNhư các vị khách mời đã chia sẻ, Vương quốc Anh ngày càng ban hành nhiều chính sách, quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu và tiêu dùng trên lãnh thổ theo hướng phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn.

Việc sớm triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ và việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thích ứng với với những tiêu chuẩn Xanh không chỉ giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Anh, sau đó mở rộng sang các thị trường lớn, trọng điểm khác.

Vì vậy, các cơ quan quản lý cần phải hành động càng sớm càng tốt, có những hướng dẫn thống nhất và đánh giá phù hợp, có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi.

Về phần mình, các doanh nghiệp cần phải chủ động thay đổi tư duy chuyển đổi sản xuất theo hướng phát triển xanh và bền vững, tận dụng cơ hội phát triển sản phẩm đáp ứng thương mại xanh, từ đó giữ vững lợi thế từ Hiệp định UKVFTA.

Hoàng Phương