Trong năm 2021 bất chấp nhiều khó khăn, thách thức lớn chưa từng có, ngành Công Thương vẫn đạt kết quả phẩn khởi với việc xuất nhập khẩu lập “đỉnh” mới. Báo Điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên về những giải pháp mà Bộ đưa ra trong giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát, đồng hành cùng doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh, cũng như những định hướng của ngành Công Thương trước thềm năm mới 2022.
Chung sức, đồng lòng “vượt bão” COVID-19
Nhận nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Công Thương từ tháng 4/2021, xin hỏi Bộ trưởng cho biết sau 8 tháng ngồi "ghế nóng", đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát lần thứ 4 ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế đất nước, Bộ trưởng đã nhận diện những thách thức đó như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Có thể nói, thời điểm dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư vừa qua không chỉ là khó khăn chung của cả đất nước, mà với cá nhân tôi, đây là thách thức rất lớn khi vừa nhận nhiệm vụ mới mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.
Nếu như những tháng đầu năm 2021, chúng ta khởi đầu với nhiều dấu hiệu tích cực thì thời điểm cuối tháng 4, đất nước phải đối mặt với “thách thức lớn chưa từng có” khi dịch COVID-19 lần thứ 4 bùng phát ở nhiều địa phương và xâm nhập vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn.
Dịch bệnh lây lan rộng trên toàn thế giới và không ngoại trừ Việt Nam. COVID-19 với sự xuất hiện của biến thể Delta có tốc độ lây lan rất nhanh và nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây đã ảnh hưởng tiêu cực đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất, kinh doanh để thực hiện các biện pháp chống dịch, trong đó chịu ảnh hưởng nặng nề là khối doanh nghiệp xuất, nhập khẩu.
Thời điểm đó, kim ngạch xuất khẩu của những khu vực kinh tế trọng điểm bị sụt giảm nghiêm trọng, điển hình như kim ngạch xuất khẩu của TPHCM trong tháng 7 giảm 31,2%, Bình Dương giảm 7,1% so với tháng 6. Đà giảm chưa dừng lại, tháng 8 xuất khẩu của TPHCM tiếp tục giảm 10,8%, Bình Dương giảm 29,7% so với tháng trước.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với tinh thần chống dịch cao nhất, nhiều địa phương khu vực phía Nam thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội. Việc hạn chế lưu thông tại các địa phương khi đó ngay lập tức đã ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa, các quy định địa phương áp dụng không thống nhất gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, làm đứt gãy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Khó khăn chồng khó khăn khi doanh nghiệp đối mặt với bài toán dừng sản xuất để chống dịch hay duy trì sản xuất - bảo đảm chống dịch.
Chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên vật liệu tăng, chi phí phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh phát sinh lớn, chi phí vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng tàu biển tăng gấp 7-8 lần so với thời điểm trước đại dịch COVID-19 và chưa “hạ nhiệt”... tất cả những yếu tố này trở thành gánh nặng cho mọi doanh nghiệp trên toàn đất nước.
Với mức chi phí sản xuất quá cao, hàng hóa không thể vận chuyển, nhiều doanh nghiệp phía nam đã lựa chọn tạm thời đóng cửa nhà máy còn các doanh nghiệp phía bắc chọn phương án “3 tại chỗ” để duy trì sản xuất. Mặc dù rất nỗ lực, song phương án “3 tại chỗ” cũng phát sinh nhiều vấn đề bất cập như: điều kiện ăn ở cho người lao động không đảm bảo, thời gian sinh hoạt ngoài giờ làm việc nảy sinh nhiều phức tạp và có thể có hệ lụy về mặt tâm lý, an sinh của người lao động khi họ bị tách khỏi gia đình quá lâu, chi phí xét nghiệm tăng cao, thời gian bắt buộc áp dụng phương châm “3 tại chỗ” có thể kéo dài dẫn đến các bất ổn trong nội bộ doanh nghiệp…
Bộ trưởng đã “chèo lái” con thuyền Bộ Công Thương như thế nào vượt qua khó khăn để đạt được kết quả rất tốt như ngày hôm nay?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Trước bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức đó, thực hiện những chỉ đạo kịp thời, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi - những cán bộ của ngành Công Thương - đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ, quyết liệt, linh hoạt và hiệu quả các giải pháp với nhiều cách làm hay, sáng tạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu.
Trước hết, Bộ Công Thương đã kịp thời đánh giá đúng tình hình, sớm thành lập “Ban chỉ đạo tiền phương” tổ chức lực lượng cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và các “Tổ công tác đặc biệt” để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh, ngăn ngừa đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng, kịp thời nắm bắt cơ hội phục hồi ngay khi “cơn bão” COVID-19 lắng xuống; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các cấp, ngành hữu quan xử lý kịp thời các vướng mắc mà doanh nghiệp gặp phải trong lưu thông hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, giải tỏa kịp thời những ách tắc tại các cửa khẩu, bến cảng nhằm duy trì các hoạt động xuất nhập khẩu…
Bên cạnh đó, chúng tôi thúc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại trên môi trường số, đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử hỗ trợ đắc lực giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, tăng tốc độ giao thương, rút ngắn khoảng cách và thời gian, tăng phạm vi và số lượng tiếp cận thị trường, khách hàng tiềm năng, đóng góp quan trọng vào kỳ tích về xuất nhập khẩu của cả nước trong năm 2021.
Đến ngày hôm nay, ngày cuối cùng của năm 2021, tôi rất vui mừng khi thông báo số liệu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt gần 670 tỷ USD, tăng gần 23% so với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt mức tăng cao 19%, xuất siêu được duy trì năm thứ 6 liên tiếp với mức thặng dư 4 tỷ USD.
Quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Năm 2021, chúng ta tiếp tục có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu “tỷ đô”, tăng 1 mặt hàng so với năm 2020, trong đó có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2020.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, cơ cấu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng từ 85,5% năm 2020 lên 86,7% năm 2021, hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Điều rất đáng mừng là hàng hóa Việt Nam liên tục ghi dấu trên bản đồ thế giới khi chúng ta xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát triển, có yêu cầu khắt khe về chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu như Hoa Kỳ (xuất siêu khoảng 80,2 tỷ USD); EU (xuất siêu khoảng gần 23,1 tỷ USD).
Các Hiệp định thương mại tự do đã được doanh nghiệp tận dụng tốt khi chúng ta vừa giữ vững được các thị trường xuất khẩu truyền thống (Hoa Kỳ,Trung Quốc, Liên minh châu Âu - EU, ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản...) vừa mở rộng được thêm nhiều thị trường tiềm năng.
Đối với Hiệp định EVFTA, năm 2021 đóng góp vào thành tích xuất khẩu khi Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang EU đạt khoảng 45,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với thời điểm chưa có hiệp định. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sử dụng C/O mẫu EUR.1 đạt khoảng 7,8 tỷ USD, cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã chú ý tận dụng cơ hội từ việc cắt giảm thuế quan của Liên minh châu Âu theo EVFTA.
Hiệp định UKVFTA thực thi từ đầu năm 2021 đã giúp cho quan hệ thương mại song phương Việt Nam - Vương quốc Anh không bị đứt gãy trong bối cảnh Anh rời khỏi EU với thương mại 2 chiều đạt gần 6,6 tỷ USD và giá trị xuất nhập khẩu đều tăng 2 chữ số (xuất khẩu tăng 15,4%, nhập khẩu tăng 24,1%). Hiệp định CPTTP, xuất khẩu sang Canada tăng 19,5%, sang Mexico tăng 46,1%, Pêru tăng 84,3%...
Những con số nêu trên là bằng chứng rõ nhất cho nỗ lực mở cửa thị trường thông qua đàm phán thương mại song phương và đa phương của Chính phủ đã thành công trong việc tháo gỡ các rào cản, minh bạch hóa các tiêu chuẩn, quy định tại thị trường đối tác giúp xuất khẩu đã có sự tăng trưởng cân đối hơn, không chỉ về quy mô chiều rộng mà hướng tới cả về chiều sâu.
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tiếp cận được các thị trường “khó tính” nhất trên thế giới, đặc biệt là với nhóm hàng nông sản và thủy sản, nhóm hàng chịu ảnh hưởng tương đối lớn của dịch bệnh. Đây tiếp tục là lợi thế mà doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng tốt hơn trong thời gian tới…
Năng lượng xanh được cân đối trong Quy hoạch điện VIII
Nếu như xuất nhập khẩu tạo nên kỳ tích của năm 2021 thì có lẽ "năng lượng tái tạo" là lĩnh vực được doanh nghiệp, người dân và dư luận quan tâm rất nhiều. Mới đây, Bộ trưởng đã đưa ra quan điểm đột phá trong sửa đổi Luật Điện lực là đề xuất để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia đầu tư truyền tải điện. Xin hỏi Bộ trưởng, cơ sở pháp lý nào để ông đưa ra quan điểm khác biệt với những quy định trước đây (Nhà nước độc quyền về truyền tải điện) và đánh giá của ông khi đề xuất này được hiện thực hóa trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Một trong các nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị là: “Nghiên cứu, xây dựng cơ chế khuyến khích thu hút nguồn vốn ngoài nhà nước đầu tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia; vận hành hệ thống điện quốc gia độc lập dưới dự kiểm soát của nhà nước” và “cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng hệ thống truyền tải điện, tách bạch với độc quyền nhà nước về truyền tải điện. Thực hiện xã hội hóa tối đa trong đầu tư và khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ ngành năng lượng, bao gồm cả hệ thống truyền tải điện quốc gia trên cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh”.
Tuy nhiên, chính sách Nhà nước độc quyền trong hoạt động truyền tải điện được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Điện lực hiện tại chưa phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết số 55-NQ/TW, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, cấp bách trong thời gian qua. Do đó, khi đưa ra đề xuất này, Bộ Công Thương đã thực hiện luật hóa chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết số 55-NQ/TW về xã hội hóa truyền tải điện.
Với “lo lắng” về an ninh năng lượng, chúng tôi đã tính toán đến yếu tố này.
Luật Điện lực hiện hành đã có các quy định việc kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động truyền tải điện: Nhà đầu tư khi tham gia với vai trò là đơn vị truyền tải điện sẽ phải tuân thủ các quy định tại Luật Điện lực và các văn bản dưới luật, như: tuân thủ phương thức vận hành, lệnh chỉ huy, điều khiển của đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia; đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm lưới điện và các trang thiết bị truyền tải điện vận hành an toàn, ổn định, tin cậy; được cấp phép hoạt động truyền tải theo quy định; được quyền thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, vận hành và bảo dưỡng tài sản đã đầu tư thông qua giá truyền tải điện.
Ngoài ra, nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải còn phải tuân thủ các quy định pháp luật đầu tư, xây dựng, chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền về đầu tư, xây dựng. Đồng thời, nhà nước yêu cầu các nhà đầu tư lưới điện truyền tải phải cho phép các chủ thể khác được quyền đấu nối vào lưới điện truyền tải do chính nhà đầu tư được giao thực hiện.
Do đó, khi đề xuất này được luật hóa sẽ đảm bảo an toàn, an ninh năng lượng quốc gia.
Có ý kiến cho rằng, chúng ta đang nói nhiều đến việc năng lượng xanh. Tuy nhiên, giá thành bán điện khi "xanh hóa" lại chưa ai đề cập đến, thậm chí giá điện có khả năng sẽ vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế nếu như thay hoàn toàn nhiệt điện than bằng năng lượng tái tạo. Xin hỏi Bộ trưởng, Quy hoạch điện VIII tính toán lộ trình để vừa "xanh hóa" năng lượng vừa đảm bảo sức chịu đựng cho nền kinh tế như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Quy hoạch điện VIII được tính toán tối ưu cho cả nguồn điện và lưới điện truyền tải theo tiêu chí tối thiểu hóa chi phí toàn hệ thống điện.
Chương trình phát triển nguồn điện đảm bảo tính tối ưu, tăng cường khả năng tự chủ của từng miền, tạo sự cân bằng cung - cầu nội miền. Quán triệt quan điểm đề ra trong Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị “…ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý”, Quy hoạch điện VIII đã bám sát các mục tiêu trên trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, đánh giá một cách toàn diện những tác động đối với việc đảm bảo an ninh cung cấp điện khi xem xét tỉ lệ giảm dần của nguồn nhiệt điện than.
Năng lượng tái tạo nói chung và đặc biệt là các dự án điện gió nói riêng tiếp tục được khuyến khích phát triển trong Quy hoạch điện VIII trên quan điểm phù hợp với quy mô của hệ thống điện theo từng thời kỳ, tránh tỉ lệ thâm nhập hệ thống điện quá cao gây khó khăn cho công tác vận hành, làm tăng tổng chi phí đầu tư toàn xã hội và giá thành bán lẻ điện tăng cao.
Xác định động lực tăng trưởng mới
Năm 2022 được coi là năm bản lề của giai đoạn 2021-2025, xin Bộ trưởng chia sẻ thêm những bước đi cụ thể, cần thiết của Bộ Công Thương để đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Dự thảo Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn 2021-2030 ngoài việc khắc phục những tồn tại hạn chế của giai đoạn trước, đã bổ sung các nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, đặc biệt là những nhiệm vụ nhằm khắc phục những yếu kém về nội tại của ngành được bộc lộ rõ hơn trong bối cảnh đại dịch COVID-19 với 5 nội dung chiến lược:
Một là, xác định các động lực tăng trưởng mới của ngành Công Thương, tăng cường sức chống chịu trước các “cú shock” bên ngoài và khai thác có hiệu quả quá trình hội nhập.
Trọng tâm ưu tiên là phát triển công nghiệp nền tảng làm chủ khu vực sản xuất, đặc biệt là tư liệu cho các ngành công nghiệp xuất khẩu và nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất; Phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; hình thành các trung tâm năng lượng lớn theo lợi thế cạnh tranh của các địa phương; phát triển hệ thống thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh để huy động các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là nguồn lực xã hội hóa cho phát triển ngành.
Phát huy thế mạnh của thị trường trong nước để củng cố nội lực là yếu tố quyết định gắn với mở rộng thị trường bên ngoài, trong đó, xác định thương mại điện tử là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế số.
Thứ hai, chúng tôi tập trung nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng trong sản xuất, xuất khẩu và sức cạnh tranh của ngành. Tập trung phát triển kinh tế số và chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao là nền tảng cơ bản để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của ngành.
Thứ ba, chú trọng nâng cấp và phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các ngành dựa trên các lợi thế so sánh ở cấp độ quốc gia, vùng và địa phương để nâng cao giá trị gia tăng, tăng cường năng lực tự chủ của ngành Công Thương.
Thứ tư, hình thành hệ thống các tập đoàn, doanh nghiệp lớn có thương hiệu và có năng lực cạnh tranh toàn cầu gắn với tăng cường quản lý cạnh tranh, chống độc quyền.
Thứ năm, chủ trương “xanh hóa” ngành Công Thương sẽ được thực hiện hướng tới phát triển bền vững. Chú trọng phát triển công nghiệp xanh và đẩy mạnh xanh hóa công nghiệp; tập trung phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và đảm bảo sản xuất, phân phối và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; thúc đẩy tiêu dùng xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!