Theo số liệu thống kê từ Cục Hải quan, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong 15 ngày đầu tháng 5/2025 đạt 35.316 tấn, trị giá 64,14 triệu USD, giảm 2,8% về lượng nhưng tăng 9,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Giá xuất khẩu cao su tăng khá cao so với cùng kỳ trước
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/5/2025, xuất khẩu cao su của nước ta đạt 488.042 tấn, trị giá 937,4 triệu USD, giảm 6,9% về lượng nhưng tăng 19,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Giá bình quân xuất khẩu cao su trong thời gian này tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 2024, đạt 1.921 USD/tấn.

Về chủng loại, theo Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương và Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại, trong 4 tháng đầu năm 2025, nhìn chung khối lượng xuất khẩu của hầu hết chủng loại cao su chính đều giảm so với cùng kỳ năm ngoái, ngoại trừ hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (mã HS: 400280).
Cụ thể, Việt Nam đã xuất khẩu 280.858 tấn hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (mã HS: 400280) sau 4 tháng đầu năm 2025, thu về 547,3 triệu USD, tăng 3,7% về lượng và tăng 37,2% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Đây tiếp tục là chủng loại cao su xuất khẩu lớn nhất, chiếm tỷ trọng 62,1% tổng khối lượng, so với mức 55,5% của cùng kỳ năm 2024. Chủng loại này chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, chiếm đến 99,8%.
Xuất khẩu mủ cao su Latex - chủng loại đứng thứ hai, đạt 58.906 tấn, trị giá 87,04 triệu USD, giảm 4,4% về lượng nhưng tăng 18,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Một số chủng loại cao su khác cũng ghi nhận xu hướng giảm về khối lượng xuất khẩu như SVR 3L, SVR 10, SVR CV60, RSS3… Dù vậy, nhờ giá bán cao hơn, kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các chủng loại vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước.
Trong 4 tháng đầu năm nay, giá xuất khẩu hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (mã HS: 400280) đạt bình quân 1.949 USD/tấn, 32,4% so với cùng kỳ năm trước; Latex đạt 1.478 USD/tấn, tăng 24,1%; SVR 3L đạt 2.163 USD/tấn, tăng 28,6%...

Tín hiệu tích cực cho xuất khẩu cao su sang EU
Theo báo cáo của Hiệp hội các quốc gia sản xuất cao su thiên nhiên (ANRPC), sản lượng cao su thiên nhiên toàn cầu trong tháng 4/2025 ước đạt 767.000 tấn, giảm 3,9% so với tháng trước và giảm 1,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong khi đó, mức tiêu thụ toàn cầu được ghi nhận ở mức 1,248 triệu tấn, giảm mạnh 10,4% so với tháng trước và giảm 1,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Dự báo cho cả năm 2025, sản lượng cao su thiên nhiên toàn cầu dự kiến tăng nhẹ 0,5% so với năm trước, đạt khoảng 14,9 triệu tấn. Trong đó, sản lượng của Thái Lan tăng 1,2%, Indonesia giảm 9,8%, Trung Quốc tăng 6%, Ấn Độ tăng 5,6%, Việt Nam giảm 1,3%, Malaysia giảm 4,2%, Campuchia tăng 5,6%, Myanmar tăng 5,3% và các quốc gia khác tăng khoảng 3,5%.
Tiêu thụ cao su thiên nhiên toàn cầu năm 2025 được dự báo sẽ đạt 15,56 triệu tấn, tăng 1,3% so với năm trước. Trong đó, tiêu thụ của Trung Quốc dự kiến tăng 2,5%, Ấn Độ tăng 3,4%, Thái Lan tăng 6,1%, Indonesia giảm 7%, Malaysia tăng 2,6%, Việt Nam tăng 1,5%, Sri Lanka tăng 6,7%, Campuchia dự báo tăng mạnh, trong khi các quốc gia khác giảm 3,5%.
Một tín hiệu tích cực đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cao su sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) là việc Ủy ban châu Âu (EC) mới đây đã công bố hệ thống phân loại mức độ rủi ro quốc gia trong khuôn khổ Quy định chống phá rừng (EUDR), dự kiến có hiệu lực vào cuối năm 2025.
Theo phân loại của EC, các quốc gia thuộc nhóm “rủi ro thấp” sẽ được áp dụng quy trình kiểm soát đơn giản hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và xuất khẩu. Việt Nam được xếp vào nhóm “rủi ro thấp”, do vậy sẽ được áp dụng quy trình kiểm soát đơn giản hơn khi xuất khẩu các sản phẩm nông - lâm nghiệp như cà phê, gỗ, ca cao và cao su… vào thị trường EU.
Có 4 quốc gia bị EC xếp vào nhóm “rủi ro cao” gồm Belarus, Myanmar, Triều Tiên và Nga; trong khi Brazil và Indonesia thuộc nhóm “rủi ro tiêu chuẩn” với mức độ kiểm soát trung bình.
Bên cạnh đó, EC cũng công bố các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhằm giảm gánh nặng hành chính và chi phí tuân thủ như cho phép tái sử dụng kê khai trước đó với hàng hóa tái nhập và cung cấp tài liệu hướng dẫn từ tháng 4/2025. Mục tiêu là tạo thuận lợi cho thương mại và đảm bảo quá trình tuân thủ EUDR diễn ra hiệu quả.