PV: Thưa ông, xin ông cho biết tình hình ứng phó với các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại tại nước ngoài cũng như sử dụng công cụ phòng vệ thương mại tại thị trường trong nước 6 tháng đầu năm 2023?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Đến hết tháng 6/2023, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với 231 vụ việc phòng vệ thương mại do các nước khởi kiện; trong đó, đứng đầu là các vụ điều tra chống bán phá giá (128 vụ việc), tiếp đó là các vụ việc tự vệ (47 vụ việc), chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại (33 vụ việc) và chống trợ cấp (23 vụ việc).
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2023, các nước đã khởi kiện 4 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (3 vụ việc chống bán phá giá của Hoa Kỳ với máy xịt rửa chạy bằng gas áp lực cao, giá để đồ bằng thép, túi mua hàng bằng giấy; 1 vụ việc tự vệ của Philippines với vỏ bình gas bằng thép), giảm nhẹ so với 5 vụ việc trong cùng kỳ của năm 2022.
Nguồn: Cục Phòng vệ thương mại (Số liệu tính đến hết tháng 6 năm 2023)
Ở chiều ngược lại, tính đến hết tháng 6/2023, Việt Nam đã khởi xướng điều tra tổng cộng 25 vụ việc phòng vệ thương mại (16 vụ việc chống bán phá giá, 1 vụ việc chống trợ cấp, 06 vụ việc tự vệ và 2 vụ việc chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại).
Trong 6 tháng đầu năm 2023, Bộ Công Thương (Cục Phòng vệ thương mại) đã hoàn thành việc điều tra vụ việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm bàn ghế nội thất, vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới trong vụ việc chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp đối với sản phẩm đường mía từ Campuchia (vụ việc NR01.AC02.AD13-AS01), vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới trong vụ việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm màng BOPP (vụ việc NR01.AD07), vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới trong vụ việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm thép phủ màu (NR02.AD04).
Hiện nay, Cục Phòng vệ thương mại đang thực hiện điều tra vụ việc rà soát việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá/chống trợ cấp đối với sản phẩm đường mía từ Thái Lan (vụ việc AR01.AD13-AS01), vụ việc điều tra rà soát biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm sợi từ Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Trung Quốc (vụ việc AR01.AD10), vụ việc điều tra rà soát biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm bột ngọt từ Indonesia và Trung Quốc (vụ việc AR02.AD10).
Ngoài ra, Cục Phòng vệ thương mại hiện đang tiếp nhận và thực hiện thẩm định đối với hồ sơ đề nghị điều tra chống bán phá giá/chống trợ cấp theo quy định đối với một số sản phẩm nhập khẩu khác theo đề nghị của các ngành sản xuất trong nước.
Thống kê các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của Việt Nam
Năm | Chống bán phá giá | Chống trợ cấp | Tự vệ | Chống lẩn tránh phòng vệ thương mại |
2009 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2010 | 0 | 0 | 0 | 0 |
2011 | 0 | 0 | 0 | 0 |
2012 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2013 | 1 | 0 | 0 | 0 |
2014 | 0 | 0 | 0 | 0 |
2015 | 0 | 0 | 2 | 0 |
2016 | 2 | 0 | 1 | 0 |
2017 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2018 | 1 | 0 | 0 | 1 |
2019 | 5 | 0 | 0 | 0 |
2020 | 5 | 1 | 0 | 0 |
2021 | 2 | 0 | 0 | 1 |
2022 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tổng | 16 | 1 | 6 | 2 |
Nguồn: Cục Phòng vệ thương mại (Số liệu tính đến hết tháng 6/2023)
PV: Ông có thể chia sẻ về một số đặc điểm, xu hướng điều tra phòng vệ thương mại nổi bật của các nước đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua? Các xu hướng này tác động thế nào tới nền kinh tế nước ta nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Cùng với việc Việt Nam tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do, các hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ, xuất khẩu nhiều mặt hàng của ta đang trên đà tăng trưởng mạnh.
Một mặt, điều này làm cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn trên nhiều thị trường nước ngoài. Mặt khác, điều này cũng gây áp lực cho các doanh nghiệp trong nước tại thị trường nhập khẩu, buộc Chính phủ của họ phải sử dụng các công cụ chính sách để bảo vệ lợi ích của ngành sản xuất trong nước, trong đó có các biện pháp phòng vệ thương mại - là công cụ được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho phép.
Ngoài ra, việc tham gia vào các chuỗi cung ứng khu vực khiến Việt Nam trở thành quốc gia thường xuyên bị kiện chung với một số nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ,... - là các quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn, thường xuyên bị điều tra phòng vệ thương mại hoặc bị nghi ngờ chuyển tải bất hợp pháp nhằm lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với các nước này.
Các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với Việt Nam đến nay chủ yếu là chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế, đến từ các thị trường thường xuyên điều tra phòng vệ thương mại với ta như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Australia... Các mặt hàng bị điều tra khá đa dạng, từ các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch vài chục triệu đến hàng tỷ USD. Trong đó, thép, sợi… là những mặt hàng thường xuyên bị điều tra theo xu hướng chung trên thế giới.
Đặc biệt, thời gian gần đây, các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại với Việt Nam có xu hướng gia tăng, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ - quốc gia điều tra nhiều vụ việc phòng vệ thương mại nhất với ta.
Riêng trong năm 2022, Hoa Kỳ đã khởi xướng 11 vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế với hàng xuất khẩu của Việt Nam (chiếm hơn 30% tổng số vụ việc điều tra chống lẩn tránh thuế với Việt Nam từ trước tới nay). Trong đó một số mặt hàng bị điều tra có kim ngạch xuất khẩu lớn như pin năng lượng mặt trời hay tủ gỗ. Không loại trừ khả năng xu hướng này sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới.
Việc hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều cuộc điều tra phòng vệ thương mại nước ngoài hơn là một hệ quả tất yếu khi xuất khẩu tăng trưởng nhanh và ta tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu trong bối cảnh tình hình thế giới đang có nhiều biến động.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc bị nước ngoài điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ có những tác động tiêu cực. Nếu hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp bị áp dụng thuế phòng vệ thương mại ở mức cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh, dẫn đến mất một phần hoặc toàn bộ thị trường xuất khẩu.
Để tránh bị áp thuế, doanh nghiệp phải bố trí thời gian và nguồn lực để xử lý, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của cơ quan điều tra nước ngoài. Điều này sẽ tạo thêm gánh nặng cho doanh nghiệp.
PV: Theo ông, bối cảnh 6 tháng cuối năm sẽ có thay đổi và ảnh hưởng thế nào đến công tác ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại? Những nhóm hàng nào, thị trường nào nằm trong danh sách cảnh báo sớm?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Dự báo tình hình thế giới, khu vực 6 tháng cuối năm 2023 tiếp tục diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ nay đến cuối năm sẽ chậm lại đáng kể do những tác động kéo dài và liên tục của chính sách thắt chặt tiền tệ cũng như các điều kiện tín dụng hạn chế, khiến xu thế bảo hộ tại nhiều nền kinh tế, khu vực gia tăng.
Bên cạnh đó, việc ta tiếp tục thực hiện các Hiệp định FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA sẽ giúp hàng hóa xuất khẩu của ta có lợi thế quan trọng tại các thị trường xuất khẩu, nhưng cũng sẽ khiến sức ép cạnh tranh tại thị trường trong nước gia tăng, xuất hiện một số hành vi lợi dụng xuất xứ Việt Nam để hưởng lợi bất hợp pháp.
Do đó, các quốc gia sẽ có xu hướng áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng nhiều và hàng xuất khẩu Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều cuộc điều tra phòng vệ thương mại nước ngoài.
Các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ cao trở thành đối tượng bị một số quốc gia tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm kim loại và các sản phẩm kim loại (như các sản phẩm thép, các sản phẩm nhôm, các sản phẩm đồng), ngành cao su và chất dẻo, ngành hóa chất, ngành vật liệu xây dựng, ngành gỗ. Đây là những ngành hàng trong thời gian qua có sự tăng trưởng nhanh và các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu nên dễ dẫn đến phát sinh các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại.
PV: Trong bối cảnh như vậy, điểm nổi bật trong kết quả ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại nửa đầu năm 2023 là thế nào và Bộ Công Thương sẽ tiếp tục triển khai những giải pháp ra sao trong thời gian tới?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Để ứng phó với những diễn biến phức tạp trong bối cảnh 6 tháng cuối năm, Bộ Công Thương mà đầu mối là Cục Phòng vệ thương mại đã và đang tiếp tục chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp xử lý hiệu quả thông qua các hoạt động đa dạng như: (i) cảnh báo sớm nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại để doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch xử lý; (ii) trao đổi kịp thời với hiệp hội, doanh nghiệp để cung cấp thông tin cập nhật giúp doanh nghiệp nắm được diễn biến vụ việc; (iii) tư vấn pháp lý, quy trình thủ tục điều tra, quy định/thông lệ điều tra của nước khởi kiện và đưa ra các khuyến nghị, hướng xử lý cụ thể cho doanh nghiệp; (iv) trao đổi, tham vấn đưa ra quan điểm của ta về các khía cạnh pháp lý và thực tiễn của vụ việc với Cơ quan điều tra của nước ngoài, đề nghị tuân thủ các quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO); (v) xem xét khởi kiện các biện pháp phòng vệ thương mại của cơ quan điều tra nước ngoài nếu có dấu hiệu vi phạm các quy định của WTO.
Các hoạt động trên đã đem lại những kết quả tích cực, ghi nhận nhiều vụ việc Việt Nam thành công trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp so với cáo buộc ban đầu hoặc so với các nước khác cùng bị áp thuế, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Một số kết quả đạt được trong năm 2022 và đầu năm 2023 như: Australia chấm dứt điều tra chống bán phá giá với amoni nitrat; Hoa Kỳ sơ bộ kết luận Việt Nam không lẩn tránh thuế với thép dây không gỉ và tạm thời miễn thuế phòng vệ thương mại đối với pin mặt trời; Ấn Độ dỡ bỏ lệnh áp thuế chống bán phá giá với thép mạ hợp kim nhôm kẽm của Việt Nam; Australia chấm dứt thuế chống bán phá giá với nhôm định hình; Philippines không gia hạn biện pháp tự vệ với hạt nhựa HDPE và xi măng nhập khẩu của Việt Nam, đồng thời giảm thuế chống bán phá giá đối với xi măng so với lệnh áp thuế trước đó; Mexico đánh giá ngành thép Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường và giảm thuế chống bán phá giá với thép mạ trong kết luận cuối cùng so với kết luận sơ bộ trước đó.
Tuy nhiên, các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại ban đầu thường kéo dài ít nhất là một năm và biện pháp sau đó (nếu được áp dụng) sẽ được rà soát hành chính hàng năm/giữa kỳ hoặc cuối kỳ... Vì vậy, Bộ Công Thương vẫn tiếp tục phối hợp cùng các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng liên quan chủ động theo dõi các vụ việc, hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý kịp thời các tình huống phát sinh để duy trì và phát huy những kết quả đã đạt được.
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan liên quan tiếp tục triển khai hiệu quả các Đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như Đề án Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại, Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ, Nâng cao năng lực về phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới… nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, chủ động ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài, hướng tới xuất khẩu bền vững.
PV: Để triển khai hiệu quả công tác phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương có những khuyến nghị gì đối với các ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp?
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn: Trước tình hình số lượng vụ việc phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng đang liên tục gia tăng, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp xuất khẩu, Cục Phòng vệ thương mại khuyến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu:
Một là, tích cực tìm hiểu quy định pháp luật, thực tiễn điều tra phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh của các nước xuất khẩu, đặc biệt là đối với các thị trường mục tiêu;
Hai là, thường xuyên cập nhật thông tin cảnh báo sớm từ Bộ Công Thương (Cục Phòng vệ thương mại) để có hành động sớm, kịp thời và có chiến lược xuất khẩu phù hợp, đồng thời thiết lập các kênh thông tin với các đối tác, các Hiệp hội, ngành hàng để kịp thời cập nhật, xử lý các vụ kiện, tình huống phát sinh;
Ba là, đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, đặc biệt là đối với các thị trường thường xuyên sử dụng công cụ phòng vệ thương mại hoặc đã từng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam;
Bốn là, nâng cao chuỗi giá trị của sản phẩm, đồng thời chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng và hạn chế việc cạnh tranh bằng giá; có chiến lược kiểm soát lượng xuất khẩu và giá bán một cách phù hợp để tránh bị coi là bán phá giá, nhận trợ cấp;
Năm là, hoàn thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, triển khai hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc nguyên liệu rõ ràng, minh bạch; áp dụng hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế, lưu giữ đầy đủ hóa đơn, chứng từ để có thể chứng minh không bán phá giá, không trợ cấp, không lẩn tránh khi bị điều tra;
Sáu là, tuân thủ chặt chẽ các quy định về chứng nhận xuất xứ; không tiếp tay cho các hành vi gian lận xuất xứ, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; phối hợp với Bộ Công Thương trong việc ngăn chặn các hành vi giả mạo, gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp;
Bảy là, hợp tác đầy đủ, toàn diện, cung cấp thông tin, tài liệu theo yêu cầu của cơ quan điều tra nước ngoài khi là đối tượng bị điều tra;
Tám là, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương (Cục Phòng vệ thương mại) trong quá trình ứng phó vụ việc để được hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng cảm ơn ông!