Theo Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại trên thế giới đã và đang là xu hướng tất yếu, phổ biến và phát triển ngày càng sâu rộng, thể hiện ở việc ngày càng nhiều nước tham gia vào WTO và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương.
Là nền kinh tế có độ mở lớn và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam cũng đang chịu những tác động của xu hướng này.
Ba năm trở lại đây, diễn biến phức tạp và tác động của dịch Covid-19 đã tạo nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Việc thực hiện cắt giảm thuế quan theo cam kết trong các FTA đưa mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt xuống rất thấp, nhiều dòng thuế ở mức 0%. Tình hình thương mại khu vực và toàn cầu, xung đột thương mại giữa một số nước diễn biến phức tạp kéo theo xu thế bảo hộ thương mại tại nhiều nước; trong khi chi phí nhiều loại hàng hóa đầu vào, chi phí vận tải tăng cao.
Bối cảnh này đã tác động trực tiếp tới các hoạt động phòng vệ thương mại của nước ta. Nhiều nước tăng cường điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều ngành sản xuất bị thiệt hại bởi hàng hóa nhập khẩu đã đề nghị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với hàng hóa nhập khẩu. Đặc biệt, xu thế định hình các liên kết kinh tế khu vực dẫn tới gia tăng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ đối với hàng hóa của Việt Nam.
Bộ Công Thương, với đầu mối là Cục Phòng vệ thương mại, đã đẩy mạnh triển khai công tác phòng vệ thương mại một cách đồng bộ, toàn diện trên tất cả các khía cạnh: hoàn thiện cơ sở pháp lý về phòng vệ thương mại, triển khai các chương trình, đề án lớn nhằm nâng cao năng lực về phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh, gian lận xuất xứ; xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm; đẩy mạnh công tác thực thi, sử dụng và ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất, xuất khẩu; đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, phổ biến thông tin về phòng vệ thương mại cho các doanh nghiệp, người dân.
Kết quả, trong công tác sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước, đến nay, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra áp dụng tổng cộng 25 vụ việc phòng vệ thương mại. Các mặt hàng điều tra đa dạng gồm: các sản phẩm kim loại cơ bản (nhôm, thép, vật liệu hàn), hoá chất (sorbitol, sợi filament, màng BOPP), vật liệu xây dựng (ván gỗ MDF, kính nổi), hàng tiêu dùng cơ bản (bột ngọt, đường mía, đường lỏng HFCS), trong đó có nhiều sản phẩm có mối quan hệ mật thiết và đặc biệt quan trọng tới đời sống của người nông dân.
Các biện pháp phòng vệ thương mại đã góp phần bảo vệ công ăn việc làm của người lao động, tác động tích cực đến đời sống của người nông dân, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích của người tiêu dùng. Đồng thời, Cục phòng vệ thương mại cũng chủ động theo dõi, phân tích đánh giá về tình hình nhập khẩu các sản phẩm đang thuộc phạm vi áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để kịp thời có báo cáo, kiến nghị xử lý các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đang áp dụng.
Ở chiều ngược lại, trong công tác ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại do nước ngoài điều tra và áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, Cục Phòng vệ thương mại cho biết hàng hóa của ta đang phải đối mặt với ngày càng nhiều vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài. Đến nay, các nước đã tiến hành điều tra 228 vụ việc phòng vệ thương mại với các mặt hàng xuất khẩu của ta. Không chỉ những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như gỗ, cá tra, cá basa, tôm, da giày, dệt may, thép… mà các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn như mật ong, máy cắt cỏ, giấy bọc thuốc lá... cũng đã bị điều tra phòng vệ thương mại từ chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ,... Hơn nữa, phạm vi điều tra phòng vệ thương mại cũng mở rộng.
Ông Trịnh Anh Tuấn - Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại cho biết, việc phối hợp cùng với các đơn vị thuộc các Bộ, ngành liên quan triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình xử lý các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài và đã đem lại những kết quả tích cực.
Việt Nam đã ghi nhận nhiều vụ việc thành công trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường quan trọng của ta như: Hoa Kỳ, Canada, Australia, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia,… Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp so với cáo buộc ban đầu/so với các nước cùng bị áp thuế, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong công tác chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ, Bộ Công Thương đã triển khai đồng bộ các hoạt động nhằm thực hiện các nhiệm vụ được giao trong khuôn khổ Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ theo Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 4/7/2019 của Thủ tướng (Đề án 824), như phối hợp với Cơ quan điều tra nước ngoài làm rõ các cáo buộc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin, thảo luận các sáng kiến nhằm chống lẩn tránh phòng vệ thương mại với các đối tác nước ngoài, gian lận xuất xứ.
Bộ Công Thương cũng tích cực tuyên truyền, phổ biến nguy cơ tiềm ẩn và quyết tâm của Chính phủ trong việc chống gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; đưa ra các giải pháp, phương án tư vấn cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhằm tránh bị các nước khác điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.
Ngoài ra, ông Trịnh Anh Tuấn cho biết, hiện Cục Phòng vệ thương mại đang theo dõi biến động xuất khẩu của 36 mặt hàng và đưa ra danh sách cảnh báo gồm hơn 10 mặt hàng trong số các mặt hàng đang theo dõi; gửi các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội, doanh nghiệp triển khai các hoạt động cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài.
Trên cơ sở danh sách cảnh báo các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại do Bộ Công Thương cung cấp, các cơ quan chức năng đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài và đưa ra biện pháp xử lý phù hợp với các hành vi vi phạm.
Bên cạnh đó, Cục cũng chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, đào tạo và nâng cao nhận thức về phòng vệ thương mại bằng nhiều hình thức khác nhau.
Cục trưởng Trịnh Anh Tuấn nhận định, thời gian tới tình hình thế giới tiếp tục có nhiều biến động nhanh và khó lường, sẽ tạo dựng một bối cảnh mới cho công tác phòng vệ thương mại toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói riêng.
Để tăng cường hiệu quả của công tác phòng vệ thương mại, Cục Phòng vệ thương mại sẽ tiếp tục nghiên cứu rà soát và hoàn thiện pháp luật phòng vệ thương mại của Việt Nam đảm bảo đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng bộ, phù hợp và thống nhất với các cam kết quốc tế, đồng thời đơn giản hoá thủ tục cho doanh nghiệp.
Đồng thời, tăng cường cơ chế phối hợp thống nhất, xuyên suốt xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại giữa các Bộ, ngành trung ương và địa phương; giữa các cơ quan trong nước và ngoài nước; giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và hiệp hội ngành hàng.
Song song với đó, Cục Phòng vệ thương mại cũng tăng cường nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các phương án và cách thức hợp tác giữa hai bên để thúc đẩy việc Hoa Kỳ xem xét công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường; bên cạnh việc tiếp tục triển khai có hiệu quả các Đề án, Chương trình được giao và tiếp tục thực hiện tuyên truyền, đào tạo, phổ biến pháp luật và thực tiễn xử lý vụ việc phòng vệ thương mại của Việt Nam và thế giới cho cán bộ cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội ngành hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm nâng cao năng lực về phòng vệ thương mại.
Ngoài ra, tham mưu các cơ quan có thẩm quyền chủ động sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ hợp lý và hợp pháp ngành sản xuất trong nước theo đúng cam kết quốc tế và pháp luật trong nước, cân bằng giữa lợi ích của các ngành sản xuất trong nước và lợi ích của người tiêu dùng, đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế xã hội.