Nền kinh tế xanh - sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia

TS. CAO VĂN TRƯỜNG (Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội)

TÓM TẮT:

Kinh tế xanh được hiểu đơn giản là một nền kinh tế sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về mặt xã hội. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, đòi hỏi phải xanh hóa nền kinh tế. Bài viết này phân tích xu hướng phát triển nền kinh tế xanh và thực trạng trên thế giới, thực trạng xây dựng nền kinh tế xanh tại Việt Nam hiện nay và các điểm cần lưu ý khi xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam.

Từ khóa: nền kinh tế xanh, phát triển bền vững, Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Nền kinh tế xanh ngày nay xuất hiện như một lựa chọn tất yếu cho việc phát triển kinh tế, tạo việc làm và chống đói nghèo. Tại Việt Nam, “nền kinh tế xanh” là một khái niệm còn mới. Những năm gần đây, Chính phủ đã chú trọng về “nền kinh tế xanh” khuyến khích các doanh nghiệp phát triển theo xu hướng này, hướng tiếp cận mới trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia theo chiều sâu và bền vững.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 được Chính phủ ban hành thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong thực hiện phát triển bền vững, thông qua các hành động thiết thực, cụ thể. Tại hội nghị Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 2021 (COP26), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu cam kết của Việt Nam trong việc “sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ hơn nữa bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng ‘0’ vào năm 2050”.

Mục tiêu của bài viết là tiến hành đồng thời các giải pháp thích ứng với tác động của BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo đảm an toàn tính mạng con người và tài sản; Tăng cường năng lực thích ứng với BĐKH của con người và các hệ thống tự nhiên; tăng trưởng xanh, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao.

2. Xu hướng phát triển nền kinh tế xanh và thực trạng trên thế giới

Tại Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Seoul, ngày 11 - 12/11/2010, các nhà lãnh đạo đã tuyên bố: “Chúng tôi thừa nhận rằng tăng trưởng xanh bền vững, vì nó vốn dĩ là một phần của phát triển bền vững, là một chiến lược phát triển chất lượng, cho phép các quốc gia đi trước đón đầu các công nghệ cũ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả thông qua việc sử dụng hiệu quả năng lượng và công nghệ sạch. Để đạt được mục tiêu đó, chúng tôi sẽ thực hiện các bước để tạo ra, nếu thích hợp, các môi trường thuận lợi cho việc phát triển công nghệ năng lượng sạch và hiệu quả năng lượng, bao gồm các chính sách và thông lệ ở các quốc gia của chúng tôi và hơn thế nữa, bao gồm cả chuyển giao kỹ thuật và nâng cao năng lực”.

“Nền kinh tế xanh” và “tăng trưởng xanh” hiện là cụm từ khá phổ biến. Nền kinh tế xanh là trọng tâm của các cuộc tranh luận tại hội nghị thượng đỉnh Rio 20 được tổ chức vào tháng 6/2012 tại Rio de Janeiro, Brazil. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), nền kinh tế xanh là nền kinh tế tạo ra sự cải thiện phúc lợi của con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu rủi ro môi trường và huỷ hoại sinh thái. Nó liên quan đến các hoạt động và phương thức tiêu dùng gây ra tác động xấu cho môi trường và nguy hại đến cuộc sống con người.Nền kinh tế xanh có thể được định nghĩa là nền kinh tế có các đặc điểm: tỷ lệ phát thải cacbon thấp, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nền kinh tế “nâu”, tức là nền kinh tế truyền thống, tạo ra sự phát triển phần lớn được hỗ trợ bởi các ngành công nghiệp khai thác (năng lượng, mỏ, gỗ,...) và theo hướng đô thị hóa, làm tổn hại đến tài nguyên thiên nhiên và xã hội. Bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên nước, kiểm soát năng lượng tái tạo) là những hoạt động chính của nền kinh tế xanh. Trong nền kinh tế xanh, tăng trưởng doanh thu và tạo việc làm được thúc đẩy bởi các khoản đầu tư công và tư với đặc điểm là sử dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải carbon, chất thải và ô nhiễm, ngăn ngừa mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái. Công nghệ xanh và các ngành công nghiệp là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia về tăng trưởng xanh.

Các nhà hoạch định chính sách quốc tế thường coi “tăng trưởng xanh”, thúc đẩy hiệu quả năng lượng và công nghệ sạch và phát triển bền vững là các mục tiêu bổ sung. Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển các công nghệ sạch sẽ là phương tiện để đạt được “tăng trưởng xanh” và cuối cùng là phát triển bền vững.

Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách này được đánh giá rất phức tạp. Có những ý kiến cho rằng chỉ nhờ đến một biện pháp kích thích xanh không thể đủ để bắt đầu một quá trình thực sự giúp nền kinh tế xanh hơn.

Giao thông vận tải là một trong những hoạt động chủ yếu phát thải khí nhà kính lớn thứ 3 sau ngành năng lượng và nông nghiệp, chiếm 18,38% tổng lượng khí nhà khí thải vào bầu khí quyển hằng năm. Theo số liệu thống kê, năm 2020, lượng CO2 phát thải trong ngành giao thông vận tải ước khoảng 47.680 nghìn tấn. Tuy nhiên, dự báo đến năm 2025 và 2030, con số này tăng xấp xỉ 2-2,5 lần, đạt lần lượt 65.138 nghìn tấn và 89.119 nghìn tấn.

Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu của HSBC dự đoán rằng thị trường năng lượng sạch toàn cầu và cơ hội đầu tư sử dụng năng lượng hiệu quả sẽ tăng gấp ba lần lên 2,2 tỷ USD vào năm 2022. Sự mở rộng này chủ yếu sẽ hiện thực hóa thông qua việc tiếp thị các phương tiện carbon thấp, chẳng hạn như ô tô hybrid hoặc ô tô chạy hoàn toàn bằng điện, thông qua sự tăng trưởng của thị trường năng lượng sạch ở Trung Quốc và thông qua nhu cầu đáng kể về thiết bị áp dụng các công nghệ xanh mới.

Mặc dù việc mở rộng nhanh chóng các thị trường cho năng lượng sạch và hàng hóa tiết kiệm năng lượng có thể đóng một vai trò thực sự thúc đẩy quá trình tăng trưởng xanh toàn cầu, nhưng điều này vẫn chưa đảm bảo rằng thế giới sẽ đạt được sự phát triển kinh tế bền vững theo cách này. Tăng trưởng xanh sẽ không đảm bảo cho sự phát triển bền vững chừng nào sự suy thoái của hệ sinh thái toàn cầu đi kèm với sự gia tăng các vấn đề khan hiếm sinh thái.

Mục đích của bài viết này là khám phá những thách thức lớn mà chính sách môi trường phải vượt qua để tránh trở nên tồi tệ hơn của vấn đề khan hiếm sinh thái toàn cầu.

Thứ nhất, có thách thức về tính bền vững. Từ quan điểm kinh tế, khan hiếm sinh thái được định nghĩa là sự mất đi một số lượng lớn các lợi ích, hay "dịch vụ" mà các hệ sinh thái cung cấp do con người khai thác chúng. Sự khan hiếm sinh thái phát sinh từ sự đánh đổi cơ bản trong việc sử dụng môi trường tự nhiên của chúng ta. Phát triển kinh tế tạo ra những lợi ích đáng kể cho nhân loại, nhưng kết quả của sự phát triển này đã làm thay đổi sâu sắc các hệ sinh thái chính của trái đất và do đó làm thay đổi những lợi ích mà chúng mang lại. Phát triển kinh tế phải tính đến sự khan hiếm sinh thái ngày càng tăng là một thách thức lớn nếu chúng ta muốn đặt sự phát triển này theo con đường bền vững.

Thứ hai, thách thức khác đó là kinh phí. Vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa lợi ích tổng thể mà nhân loại nhận được từ các hệ sinh thái mà họ sử dụng và những gì chúng ta sẵn sàng trả để duy trì và bảo tồn chúng. Ước tính rằng lợi ích tạo ra từ việc sử dụng các hệ sinh thái có thể lên tới hàng trăm tỷ USD. Tuy nhiên, ngày nay, thế giới chi khoảng10 tỷ USD mỗi năm cho việc bảo tồn các hệ sinh thái này. Hơn nữa, mặc dù các khu bảo tồn trên khắp thế giới tiếp tục phát triển, nhưng bị thiếu hụt nghiêm trọng ở hầu hết mọi nơi và đặc biệt là ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, Bắc Phi, Trung Đông và châu Á.

Khắc phục khoảng cách tài chính này là điều cần thiết, những lợi ích chúng ta được hưởng từ tự nhiên tỷ lệ nghịch với sự suy giảm của các hệ sinh thái toàn cầu.  Nhưng cho đến nay, một số động lực kinh tế tiêu cực đã ngăn cản sự thành công của quốc tế nhằm ngăn chặn sự mất đa dạng sinh học và sự suy thoái của các hệ sinh thái toàn cầu.

Các lập trường ủng hộ đồng tình và không đồng tình với sự phát triển xanh bền không dễ dàng dung hòa. Tuy nhiên, các nhà kinh tế của cả 2 trường phái đều đồng ý rằng lợi ích do thiên nhiên mang lại là rất lớn và có nguy cơ cạn kiệt. Theo giải thích của Dasgupta (TS. Susmita Dasgupta - chuyên gia cao cấp về kinh tế môi trường, Ngân hàng Thế giới, 2008, trang 3), “Hệ sinh thái là tài sản vốn. Giống như tài sản vốn có thể tái sản xuất (đường xá, tòa nhà và máy móc), hệ sinh thái sẽ mất giá nếu chúng bị sử dụng sai mục đích hoặc sử dụng quá mức. Nhưng chúng khác với tài sản vốn có khả năng tái sản xuất ở 3 điểm: Một là, khấu hao vốn tự nhiên thường không thể thay đổi được (hoặc tốt nhất là các hệ thống mất nhiều thời gian để phục hồi); Hai là, ngoại trừ trong một ý nghĩa rất hạn chế, điều đó là không thể để thay thế một hệ sinh thái đã cạn kiệt hoặc suy thoái bằng một hệ sinh thái mới. Ba là, các hệ sinh thái có thể sụp đổ đột ngột mà không có nhiều cảnh báo trước.

Sự khan hiếm sinh thái ngày càng tăng là một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang làm cạn kiệt các hệ sinh thái một cách không thể phục hồi và quá nhanh chóng. Do đó, có thể là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển hiện nay của nền kinh tế thế giới là không bền vững: một nguồn vốn tự nhiên quan trọng, cần được giữ nguyên vẹn, đang bị suy thoái không thể phục hồi, gây nguy cơ cho hiện tại và các thế hệ tương lai.

Không những các nhà hoạch định chính sách công mà cả cộng đồng doanh nghiệp quốc tế thấy rằng giữa chính phủ và các doanh nghiệp phải có sự hợp tác để cải thiện môi trường, thế giới sẽ có cơ hội đối phó kịp thời với mối đe dọa mà sự khan hiếm sinh thái ngày càng tăng gây áp lực lên sự bền vững của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, do chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga vào Ukraine từ ngày 24/02/2022, hiện nay, Nga đang cắt giảm khí đốt đến châu Âu thông qua đường ống Nord Stream 1 dưới biển Baltic giữa lúc Moscow và phương Tây đối đầu căng thẳng vì cuộc khủng hoảng Ukraine. Trong những tuần gần đây, Nga đã giảm và cắt đứt hoàn toàn lượng khí đốt đối với một số nước châu Âu, Nga giảm 50% lượng khí đốt cung cấp cho Ý và Slovakia, đồng thời cắt đứt nguồn cung hoàn toàn đối với Pháp, đánh dấu ngày cắt giảm khí đốt thứ 3 liên tiếp.  

Các doanh nghiệp châu Âu nhập khẩu khí đốt của Nga đang tìm kiếm các nguồn cung nhiên liệu thay thế và thậm chí còn cân nhắc quay trở lại sử dụng than đá để bù đắp nguồn khí đốt thâm hụt từ Nga, trong bối cảnh lo ngại nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng năng lượng vào mùa đông nếu các kho không được trữ đầy.

Theo hãng tin AP, Moscow trước đó ngắt toàn bộ dòng khí đốt đến Ba Lan, Bulgaria, Phần Lan, Hà Lan và Đan Mạch, cũng như giảm nguồn cung đến Áo và một số nước Đông Âu. Tập đoàn Năng lượng Gazprom (Nga) đã cắt giảm 50% lượng khí đốt đến Đức (nền kinh tế lớn nhất châu Âu), trong khi mùa đông đang đến gần.

Công ty Năng lượng Eni của Italia cho biết, doanh nghiệp này đã nhận được thông báo từ phía tập đoàn năng lượng Gazprom của Nga rằng Eni sẽ chỉ nhận được một phần khí đốt theo yêu cầu của công ty. Thực tế này khiến Italia đối mặt với việc có thể phải ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, theo đó có thể dẫn tới việc thực hiện các biện pháp tiết kiệm khí đốt.

Đức cũng lâm vào tình cảnh tương tự. Ngày 19/6, nước này công bố kế hoạch tăng lượng dự trữ khí đốt và cho biết có thể tái khởi động các nhà máy nhiệt điện mà nước này từng định đóng cửa.

Thủ tướng Đức Olaf Sholz nói, bù lại sự thiếu hụt nguồn cung khí đốt từ Nga, chúng ta buộc phải đánh đổi môi trường.

Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck cho biết, đây là thực tế đau lòng, song nếu không làm vậy, các kho dự trữ khí đốt sẽ không đủ đầy để cung cấp cho người dân qua mùa Đông năm nay.

3. Thực trạng xây dựng nền kinh tế xanh tại Việt Nam hiện nay

“Tăng trưởng xanh” đã trở thành xu thế tất yếu, là một hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế nhằm đạt được thịnh vượng toàn diện cho các quốc gia.
Trong hơn 2 thập kỷ qua, Việt Nam phải chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, suy thoái đất canh tác, bão lũ và một trong những nguyên nhân căn bản đó đến từ thực trạng tỷ lệ rừng suy giảm.

Trong bối cảnh đó, Tết trồng cây - một truyền thống đẹp lại được “khởi động” bằng sáng kiến trồng 1 tỷ cây xanh của Thủ tướng Chính phủ, đã đề ra mục tiêu trồng mới 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025. Riêng năm 2021, chỉ tiêu trồng cây xanh cao hơn 1,5 lần và từ năm 2022 đến năm 2025, cao gấp 2 lần so với kết quả thực hiện năm 2020.

Trên thực tế, Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững, trong đó tiêu dùng xanh ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Nhiều văn bản liên quan đã được ký kết như: Tuyên ngôn quốc tế và Kế hoạch hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững (1999), các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; Tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn (1999).

Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh như chương trình cấp nhãn sinh thái, nhãn tiết kiệm năng lượng, nhãn sinh thái cho ngành Du lịch cũng được triển khai. Đặc biệt là, Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các chính sách liên quan đến tiêu dùng xanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

Định hướng và mục tiêu xanh hóa nền kinh tế được thể hiện chi tiết tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam.

Do có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam duy trì ở mức trung bình khoảng 5,95%/năm trong giai đoạn từ năm 2012 - 2020.

Năm 2021, Hà Nội dự báo đưa vào vận hành tuyến đường sắt đô thị Nhổn - Ga Hà Nội, đoạn trên cao từ Nhổn đến Cầu Giấy. Đây là loại hình vận tải công cộng khối lượng lớn, sử dụng nhiên liệu điện sạch, an toàn. Tuy nhiên, quan trọng nhất là cần hạn chế, tiến tới giảm dần hàng triệu chiếc xe máy, ô tô cá nhân; hệ thống xe buýt cũng cần được xanh hóa,... Đồng thời, với mục tiêu đưa xe buýt điện vào sử dụng trong giai đoạn 2021 - 2025 được xem là động thái thể hiện sự nỗ lực của chính quyền nhằm xây dựng hệ thống giao thông công cộng xanh, giảm ô nhiễm môi trường.

Việt Nam đang tiếp tục đà đổi mới, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, đề cao chất lượng và hiệu quả, đồng thời nỗ lực hết sức mình để phục hồi hậu Covid-19. Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP giảm xuống 2,58% vào năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta nhưng dự kiến ​​sẽ phục hồi lên 6.7% vào năm 2022.

4. Các điểm cần lưu ý khi xây dựng nền kinh tế xanh ở Việt Nam

Trong nền kinh tế xanh, tăng trưởng doanh thu và tạo việc làm được thúc đẩy bởi các khoản đầu tư công và tư với đặc điểm là sử dụng tốt hơn các nguồn tài nguyên, chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải carbon, chất thải và ô nhiễm, ngăn ngừa mất đa dạng sinh học và suy thoái hệ sinh thái. Công nghệ xanh và các ngành công nghiệp là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia về tăng trưởng xanh. Những năm qua, nhiều mô hình tiêu dùng xanh được cộng đồng xã hội hưởng ứng như: gói rau, củ, quả bằng lá chuối; dùng bình nước bằng thủy tinh, ống hút bằng tre hoặc giấy; sử dụng ly giấy thay ly nhựa, túi vải thay túi nylon,…

Để có nền kinh tế xanh và phát triển bền vững, việc đầu tiên chúng ta phải có được câu trả lời tốt cho những câu hỏi sau:

• Thứ nhất, nền kinh tế xanh là gì?

Đó là nền kinh tế tạo ra cải thiện phúc lợi cho con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu đáng kể rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái.

• Thứ hai, mục tiêu của nền kinh tế xanh là gì?

Nền kinh tế xanh tìm cách duy trì cân bằng vốn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự phân phối công bằng của chúng, cho toàn nhân loại và cho các thế hệ tương lai. Nó đi đôi với việc sửa đổi các phương thức sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, để chúng tích hợp các hạn chế về môi trường và xã hội.

Thứ ba, Việt Nam có vị trí như thế nào trên thế giới về nền kinh tế xanh?

Nhằm thực hiện chủ trương về phát triển bền vững, phát triển kinh tế xanh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. Đây là bản chiến lược đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam, phù hợp với điều kiện trong nước và bắt kịp với xu hướng chung trên thế giới. Ngày 26/8/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 73/NQ-CP phê duyệt chủ trương đầu tư 21 Chương trình mục tiêu giai đoạn 2016-2020, trong đó có Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh. Tiếp theo đó, các điểm cần chú ý về pháp lý của nền kinh tế xanh ở Việt Nam cần được cụ thể như sau:

- Nhận thức về bảo vệ môi trường cần được nâng cao trong xã hội trên cơ sở đổi mới tư duy, ý thức trách nhiệm với thiên nhiên, môi trường. Tuyên truyền, giáo dục về môi trường là việc làm trọng yếu, từ đó có những hành động thiết thực trong công tác phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, phòng chống biến đổi khí hậu,... triển khai thực hiện phát triển kinh tế xanh, phát triển bền vững theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Các chính sách về môi trường cần được tiến hành cải cách; hệ thống thuế tài nguyên, thuế môi trường cần được tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh và hoàn thiện.

- Đầu tư cho khoa học và công nghệ cần được tăng cường, đồng thời tiếp nhận, chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đẩy mạnh nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề phát triển kinh tế xanh như giảm thiểu phát thải carbon, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng thân thiện với môi trường.

- Môi trường đầu tư cần được cải thiện, tăng cường thu hút mọi nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, trong đó tập trung huy động nguồn vốn nước ngoài. Việc thu hút nguồn vốn nước ngoài không chỉ góp phần phát triển kinh tế xanh, mà còn giúp doanh nghiệp trong nước học hỏi được kinh nghiệm từ phía doanh nghiệp nước ngoài.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Liên hợp quốc (1992), Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu.
  2. Susmita Dasgupta (2008), Where is the poverty-environment nexus? Evidence from Cambodia, Lao PDR, and Vietnam.
  3. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 về phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”.
  4. WB (2012), Inclusive green growth: The pathway to sustainable development.
  5. HSBC (5/2022), Kỳ vọng Việt Nam có nhiều dự án xanh trong tương lai. Truy cập https://kinhtevadubao.vn/hsbc-ky-vong-viet-nam-co-nhieu-du-an-xanh-trong-tuong-lai-22834.html)
  6. Bộ Công Thương (2021), Định nghĩa về tăng trưởng xanh của một số quốc gia, tổ chức quốc tế. Truy cập https://moit.gov.vn/phat-trien-ben-vung/dinh-nghia-ve-tang-truong-xanh-cua-mot-so-quoc-gia-to-chuc-quoc-te.html

Green economy - The sustainable development of an economy

Ph.D Cao Van Truong

Hanoi University Of Industry

Abstract:

Green economy is simply understood as an economy that efficiently and economically uses natural resources, and ensures social justice. It is necessary to greening the economy to achieve  sustainable development goals. This paper analyzes the development trend of green economy, the current situation of green economy in the world, and the current green economy development in Vietnam. This paper also points out some notes for the development of green economy in Vietnam.

Keywords: green economy, sustainable development, Vietnam.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 15, tháng 6 năm 2022]