Tóm tắt:
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người mà không ai có thể xâm phạm kể cả khi một người phải đối mặt với các thủ tục tố tụng hình sự do đã thực hiện một hành vi có dấu hiệu phạm tội được quy định trong pháp luật hình sự của đất nước. Bài viết trình bày khái quát khái niệm về quyền con người; quy định của pháp luật hình sự nhằm bảo đảm quyền con người; thực trạng hiện nay và một số kiến nghị nhằm đảm bảo, bảo vệ quyền con người.
Từ khóa: quyền con người, pháp luật hình sự, khởi tố, điều tra.
1. Đặt vấn đề
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau, theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố[1] Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý mang tính phổ quát (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm và tự do cơ bản của con người”[2]
Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người được bảo vệ dưới cả 2 góc độ: Người phạm tội và người bị hại (người bị tội phạm xâm hại) và được thể hiện ở cả phần chung và phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người[3].
2. Quy định hiện hành của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm quyền con người
Một là, nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; được ghi nhận trong pháp luật quốc gia cụ thể: khoản 1, Điều 31, Hiến pháp Việt Nam năm 2013; điều 2 Bộ luật Hình sự 2015; điều 13, 85, 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trước thời điểm Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được quy định cụ thể. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng đã xuất hiện ở một số văn bản như Thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953: “Không nên có định kiến người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để tòa án có thái độ hoàn toàn khách quan” hay Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao.
Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Nguyên tắc suy đoán vô tội bảo đảm cho việc chứng minh hành vi có hay không việc bị coi là tội phạm, quá trình chứng minh hành vi có chính xác, vô tư và khách quan không? Nếu những người tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan khi thu thập, đánh giá các chứng cứ; nếu trong đầu họ có suy nghĩ cảm tính, định kiến, coi người bị buộc tội là người phạm tội thì nguy cơ xảy ra oan sai sẽ là rất lớn.
Điều 13, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Như vậy, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ căn cứ để buộc tội, không thể chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội với vị thế yếu hơn tương quan với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với vị thế mạnh hơn và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước.
Điều 85, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt”. Từ Điều 85 cho thấy, các yếu tố trên đóng vai trò quan trọng trong việc định tội danh đối với người bị buộc tội. Nếu không chứng minh được có hành vi phạm tội thì người bị buộc tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Điều 98, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội”. Như vậy, cơ quan điều tra sẽ phải tiến hành hoạt động điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ mà không được dựa vào lời khai của bị can, bị cáo, coi đây là chứng cứ duy nhất để kết tội họ. Điều này giúp hạn chế tình trạng oan sai, bảo vệ quyền con người nếu bị can, bị cáo thiếu hiểu biết hoặc vì một lý do nào đó mà họ nhận tội mặc dù bản thân không thực hiện hành vi đó.
Hai là, Quyền im lặng.
Điều 12 của “Tuyên bố về bảo vệ mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1975” đã quy định: “Bất kỳ lời khai nào đã được xác lập mà có được bởi kết quả của tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác không thể được viện dẫn làm bằng chứng chống lại người có liên quan hoặc chống lại bất kỳ người nào khác trong bất kỳ thủ tục tố tụng nào”. Như vậy, mọi lời khai không xuất phát từ ý chí chủ quan của người khai mà xuất phát từ nỗi đau về thể xác, sự đau đớn về tinh thần thì đều không được ghi nhận, không có giá trị pháp lý. Mỗi quốc gia có cách hiểu khác nhau về quyền im lặng. Ví dụ: Tại Mỹ và Đức, thì “quyền im lặng” được ghi nhận nhưng không có nghĩa là loại trừ nghĩa vụ khai báo, hay như ở Nhật thì “quyền im lặng” được hiểu là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của luật sư[4].
"Quyền im lặng" là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của luật sư[5]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã ban hành một cách rõ nét về quyền im lặng như điểm c khoản 2, Điều 59, Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền và nghĩa vụ của người tạm giữ; điểm d khoản 2, Điều 60, Bộ luật Tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can; điểm h, khoản 2, Điều 61, Bộ luật Tố tụng hình sự áp dụng đối với bị cáo. Như vậy, quyền im lặng được thể hiện ở tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố tới xét xử. Đây là sự cụ thể hóa Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 mà Việt Nam đã tham gia năm 1982, đồng thời nhằm thực hiện nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020[6].
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự luôn tồn tại hiện tượng đặt nặng thành tích xử lý tội phạm. Do đó, điều tra viên sẽ mặc định bị can, bị cáo phải khai báo tội trạng, không khai báo là ngoan cố, không có thái độ hợp tác với cơ quan điều tra và vì vậy sẽ dẫn đến tình trạng mớm cung, ép cung, bức cung, sử dụng nhục hình để tra tấn đối với người bị tình nghi nhằm có được lời khai nhận tội.
Ba là, Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện.
Điều 9, Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, 1948 (Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền - UDHR) đã quy định: “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”. Sau đó, khoản 1, Điều 9, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 (ICCPR) đã quy định: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định”. Như vậy, người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo lý do, nguyên nhân bị buộc tội. Không có nguyên nhân, chứng cứ thì không được phép bắt giữ tùy tiện, vô cớ.
Trong pháp luật Việt Nam, khoản 2, Điều 20, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang; Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người”. Như vậy, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này.
Một khi quyền tự do, an toàn cá nhân không được đảm bảo thì việc bảo vệ các quyền cá nhân khác sẽ dễ bị tổn thương và phi thực tế. Trong thực tiễn, tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện, trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử vẫn xảy ra. Do đó, cần có biện pháp ngăn chặn, quy định pháp lý chặt chẽ hơn để ngăn chặn tình trạng này diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn.
Bốn là, Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục.
Điều 7, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) nêu rõ: không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.
Khoản 1, Điều 1, Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984) quy định “tra tấn” là: bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát gắn liền với hoặc có liên quan đến các biện pháp trừng phạt hợp pháp.
Khoản 1, Điều 20, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Điều 10, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người.
Có thể thấy, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là những điều quý giá, thiêng liêng thuộc về mỗi cá nhân và không thể đánh đổi, xâm phạm. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự là những quyền cơ bản, chính đáng, là mối quan tâm của không chỉ Việt Nam mà cả quốc tế.
Năm là, Quyền được xét xử công bằng.
Một số quy định của pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được ghi nhận như: điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); điều 8 Công ước nhân quyền châu Mỹ năm 1969 (ACHR); điều 10 và 11 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 (UDHR)…
Quyền được xét xử công bằng là các chủ thể bình đẳng trước hệ thống Tòa án độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Tuy quyền được xét xử công bằng chưa được quy định cụ thể, trực tiếp nhưng đã được quy định gián tiếp trong pháp luật hình sự. Ví dụ: các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đặc biệt là Điều 9. Điều 9 quy định, tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Như vậy, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào thực hiện hành vi phạm tội đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Thực trạng hiện nay và một số kiến nghị nhằm đảm bảo, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Nhìn chung, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định, bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự đúng tiến độ, xử lý đúng người đúng tội, quyền con người trong tố tụng hình sự được bảo vệ. Cụ thể: Số vụ án truy tố đúng thời hạn đạt 100% (vượt 10%) và số bị can truy tố đúng tội danh đạt 99,9% (vượt 4,9%)[7]. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn tồn tại một số vụ án xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm dẫn đến tính chất vụ án bị "bóp méo". Ví dụ như vụ án ông Nguyễn Thanh Chấn bị kết án oan về tội giết người, cướp tài sản xảy ra vào ngày 15/8/2003 tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Sau khi thủ phạm của vụ án là Lý Nguyên Chung ra đầu thú, khai nhận hành vi giết chị Nguyễn Thị Hoan (nạn nhân trong vụ án) thì ông Nguyễn Thanh Chấn mới được minh oan. Nguyên nhân của vụ án là do các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thu thập đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra xảy ra hành vi bức cung, dùng nhục hình đối với bị can nhằm định hướng điều tra, buộc bị can phải thừa nhận hành vi mà mình không thực hiện. Hay một ví dụ khác mới được tổ chức buổi xin lỗi và cải chính công khai để phục hồi danh dự, đó là vụ án oan sai ông Đỗ Văn Hùng (ngụ tại quận 8, TP. HCM). Ông Hùng từng là nạn nhân của một vụ oan sai kéo dài hơn một thập kỷ, gây ra những tổn thất không thể bù đắp được cả về vật chất lẫn tinh thần. Nguyên nhân gây ra là do những sai lầm của cơ quan tố tụng. Phát biểu tại buổi xin lỗi và cải chính, đại diện Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Nông bày tỏ sự tiếc nuối sâu sắc: "Qua quá trình xem xét và kết luận, ông Đỗ Văn Hùng đã bị truy tố oan. Trong thời gian dài bị tạm giam, ông Hùng phải chịu đựng thân phận bị can, bị cáo, gây ra những tổn thất không gì có thể bù đắp. Thay mặt Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Nông, tôi xin gửi lời xin lỗi chân thành tới ông Hùng vì những sai lầm của cơ quan tố tụng đã khiến ông phải chịu oan sai"[8]. Mặc dù số vụ án xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm không nhiều nhưng sự nghiêm minh của các cơ quan tiến hành tố tụng đã phần nào bị ảnh hưởng trong suy nghĩ của người dân. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, các hành vi xâm phạm đến quyền con người được thể hiện chủ yếu ở 3 dạng như sau:
Một là, vi phạm các quy định liên quan đến quyền của người tham gia tố tụng. Dù luật đã quy định đầy đủ các quyền của người tham gia tố tụng, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, vẫn tồn tại trường hợp họ không được phổ biến đầy đủ các quyền đã được quy định hoặc xuất hiện hành vi không để họ thực hiện đầy đủ các quyền của mình.
Hai là, vi phạm về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế tại chương VII bao gồm căn cứ, thời hạn, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng. Tuy nhiên, vi phạm vẫn xảy ra như áp dụng biện pháp ngăn chặn khi chưa đủ căn cứ, không đúng thẩm quyền, thực hiện không đúng trình tự, thủ tục hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi chưa thật sự cần thiết.
Ba là, sử dụng hành vi bức cung, dùng nhục hình, mớm cung. Hành vi tác động đến thân thể, tinh thần của bị can trong quá trình điều tra trước hết đã ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm (Khoản 1, Điều 20, Hiến pháp năm 2013) sau là tính khách quan của chứng cứ. Từ đây, chứng cứ không còn giá trị chứng minh do đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Nguyên nhân của hành vi bức cung, dùng nhục hình, mớm cung có thể xuất phát từ định kiến chủ quan của điều tra viên đối với bị can hoặc tâm lý phải nhanh chóng tìm ra thủ phạm, kết thúc điều tra vụ án.
Ngày 09/11/2022 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Một trong những quan điểm lãnh đạo xuyên suốt của Đảng ta được thể hiện tại Nghị quyết số 27-NQ/TW là: “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển của đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Để đáp ứng Nghị quyết số 27-NQ/TW nói chung, để đảm bảo, bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng, tác giả kiến nghị một số giải pháp:
Một là, quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tư pháp gắn liền với bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự không chỉ thể hiện quyết tâm của toàn bộ hệ thống chính trị, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp gắn với bảo đảm quyền con người, đặc biệt là nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Hai là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ hệ trọng, then chốt, cần được thực hiện thường xuyên, liên tục để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Đối với các cơ quan thì cần quan tâm, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thông qua các lớp tập huấn chuyên đề, nghiên cứu, lấy các vụ án điển hình có hành vi xâm phạm quyền con người làm chủ đề cho hội thảo, hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm. Đối với mỗi cán bộ thì cần không ngừng tự học tập, rèn luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ.
Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Công tác tuyên truyền, phổ biến cần đặc biệt chú trọng một trong những quan điểm lãnh đạo xuyên suốt của Đảng ta được thể hiện tại Nghị quyết số 27-NQ/TW là: “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển của đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”. Về hình thức tuyên truyền, phổ biến thì cần đa dạng, áp dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm tránh gây nhàm chán. Nội dung tuyên truyền, phổ biến cần ngắn gọn, khái quát, tập trung vào những nội dung quan trọng, then chốt.
Bốn là, xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm quyền con người của bị can. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự vẫn tồn tại hiện tượng áp lực thời gian, đặt nặng thành tích xử lý tội phạm. Bởi vậy, điều tra viên sẽ mặc định bị can phải khai báo tội trạng, không khai báo là ngoan cố, không có thái độ hợp tác với cơ quan điều tra. Vì vậy có thể dẫn đến tình trạng mớm cung, ép cung, bức cung... đối với người bị tình nghi nhằm có được lời khai nhận tội. Để hạn chế tình trạng này, cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu, đưa ra các biện pháp khác nhau nhằm đảm bảo hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, phù hợp chức năng, nhiệm vụ của ngành mình.
Tài liệu trích dẫn :
[1] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018). Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người (dành cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị). Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
[2] United Nations, Human Rights (2006). Questions and Answers, New York and Geneva, tr. 4.
[3] Phan Anh Tuấn (2023). Bảo vệ quyền con người qua Bộ luật Hình sự 2015, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Bùi Trung Bun (2021). “Quyền im lặng” của người bị buộc tội, Tạp chí Xây dựng Đảng. Truy cập tại: https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/quyen-im-lang-cua-nguoi-bi-buoc-toi-15908
[5] Bùi Trung Bun (2021). “Quyền im lặng” của người bị buộc tội, Tạp chí Xây dựng Đảng. Truy cập tại: https://www.xaydungdang.org.vn/nhan-quyen-va-cuoc-song/quyen-im-lang-cua-nguoi-bi-buoc-toi-15908
[6] Hội thảo khoa học: “Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; thu thập dữ liệu điện tử; ghi âm, ghi hình trong Luật Tố tụng hình sự và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động điều tra của lực lượng CAND”, Học viện Cảnh sát nhân dân.
[7] Nguyễn Huy Tiến (2024), Năm 2024: Điều tra, xử lý gần 1.000 vụ tội phạm tham nhũng, chức vụ.
[8] Ý Linh (2025). Người đàn ông mang án oan kể lại chuỗi bi kịch khó ai có thể tưởng tượng, Báo Người lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013). Hiến pháp năm 2013.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015). Bộ luật Hình sự năm 2015.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015). Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Ban chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (1948) (UDHR).
Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984).
DISCUSSING THE PROTECTION OF HUMAN RIGHTS IN THE PHASE OF PROSECUTION AND INVESTIGATION OF CRIMINAL CASES
Nguyen Huu Thang
University of Law, Viet Nam National University, Ha Noi, Viet Nam
Abstract:
Human rights are fundamental entitlements inherent to all individuals by virtue of their existence as human beings, independent of any grant or recognition by the state. their existence as human beings, independent of any grant or recognition by the state. These universal rights apply to everyone, regardless of nationality, gender, ethnic or national origin, color, religion, language, or any other status.
Human rights constitute objective entitlements that must not be violated, even in the context of criminal proceedings against individuals accused of acts bearing criminal characteristics as defined under national criminal law. This study offers an overview of the concept of human rights, examines the legal provisions in criminal law designed to safeguard human rights, assesses the current state of protection, and proposes recommendations to strengthen the assurance and protection of human rights.
Keywords: human rights, criminal law, prosecution, investigation.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 13/2025]
