Các đặc điểm của hội đồng quản trị ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

TS. PHẠM NGỌC TOÀN (Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh) và ThS. NGUYỄN THÀNH LONG (Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải 3)

TÓM TẮT:

Việc xác định và đánh giá các đặc điểm của hội đồng quản trị ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề cần thiết. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: Quy mô hội đồng quản trị, thành viên độc lập trong hội đồng quản trị, thành viên không điều hành trong hội đồng quản trị, tần suất các cuộc họp hội đồng quản trị, quyền kiêm nhiệm có mối quan hệ cùng chiều, có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố, tỷ lệ sở hữu vốn của hội đồng quản trị tác động ngược chiều đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính. Từ kết quả nghiên cứu này, tác giả đã đề xuất một số giải pháp có tác động trực tiếp đến việc nâng cao mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ khóa: Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính, sàn giao dịch chứng khoán, Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Giới thiệu

Báo cáo tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin đối với nhà đầu tư, các tổ chức quản lý và là điều kiện thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả và lành mạnh. Mức độ thông tin công bố là mối quan tâm của thị trường chứng khoán, nhằm tăng cường mức độ thông tin công bố, tạo sự minh bạch và ổn định cho thị trường Nhà nước đã có các quy định về hoạt động công bố thông tin. Những quy định về công bố thông tin định kỳ trên báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán có ảnh hưởng quan trọng đến tính hữu ích của thông tin và tính minh bạch của thị trường.

Theo quan điểm của Bộ Tài chính (2015), mức độ công bố thông tin được hiểu là phương thức để thực hiện quy trình minh bạch của doanh nghiệp nhằm đảm bảo các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thông tin một cách công bằng và đồng thời. Công bố thông tin ngoài cung cấp thông tin cho đối tượng sử dụng, bên cạnh đó còn giúp cho doanh nghiệp thu hút sự đầu tư bên ngoài. Để tăng cường uy tín, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của công ty niêm yết. Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán là một trong những mục tiêu của sự phát triển thị trường chứng khoán.

Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan có quyền lực cao nhất trong doanh nghiệp, hoạch định những chiến lược, giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của HĐQT ngày càng quan trọng ở các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Việc nghiên cứu các đặc điểm của HĐQT ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên BCTC giúp cho các tổ chức, các nhà quản lý thấy được các tác động của HĐQT góp phần nâng cao mức độ công bố thông tin trên BCTC tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Cơ sở lý thuyết, mô hình và phương pháp nghiên cứu

2.1. Cơ sở lý thuyết và mô hình đề xuất

Theo Thông tư 155/2015/TT-BTC mới nhất yêu cầu việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính xác và kịp thời theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính xác và kịp thời về thông tin do người được ủy quyền công bố thông tin công bố.

Công bố thông tin gồm có hai loại là công bố thông tin bắt buộc và công bố thông tin tự nguyện.

- Công bố bắt buộc (Madatory disclosures): Là những công bố kế toán được yêu cầu bởi luật pháp và những quy định của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ.

- Công bố tự nguyện (Voluntary disclosures): Là sự lựa chọn của doanh nghiệp, không bắt buộc.

Các đặc điểm Hội đồng quản trị ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên BCTC như sau:

- Thành viên độc lập trong HĐQT

Theo lý thuyết người đại diện, thành viên HĐQT độc lập sẽ giám sát và kiểm soát các thành viên HĐQT bên trong công ty, bảo vệ tài sản công ty và hướng các nhà quản lý có trách nhiệm với các bên liên quan quan trọng khác nhau của công ty (Perry và Shivdasani, 2005). Trong khi đó, theo quan điểm quản trị, các thành viên HĐQT độc lập cung cấp những lời tư vấn chuyên sâu, những hướng dẫn có giá trị cho công ty. Theo các nghiên cứu trước cho thấy rằng tỷ lệ thành viên độc lập HĐQT tác động tích cực đối với mức độ công bố thông tin, giúp giám sát tốt hơn (Cheng and Courtenay, 2006)

Giả thiết H1: Tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT ảnh hưởng cùng chiều với mức độ công bố thông tin.

- Tỷ lệ sở hữu vốn HĐQT

Việc sở hữu cổ phiếu của các thành viên HĐQT là một sự khích lệ. Sự khích lệ này sẽ đảm bảo các thành viên HĐQT vận hành doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn và giám sát các giám đốc điều hành một cách cẩn trọng hơn. Vì vậy, việc sở hữu cổ phiếu của HĐQT sẽ cải thiện hiệu quả hoạt động công ty. Arman Aziz (2011) đã tìm ra tác động giữa tỷ lệ sở hữu vốn và mức độ công bố thông tin.

Giả thiết H2: Tỷ lệ sở hữu vốn trong HĐQT có mối quan hệ cùng chiều/ngược chiều với mức độ công bố thông tin.

- Tần suất các cuộc họp HĐQT

Vafeas (1999) lập luận rằng thời gian cần thiết để thu thập các thông tin nhạy cảm trong việc chuẩn bị cho các cuộc họp HĐQT làm cho ngày của các cuộc họp trở nên quan trọng. Ban giám đốc đòi hỏi kiến thức nền tảng sâu sắc và cập nhật kịp thời về hoạt động và kết quả của công ty. Do đó, một tần suất cuộc họp cao hơn ngụ ý áp lực lớn hơn với các nhà quản lý trong việc cung cấp thông tin bổ sung. Quan điểm này được hỗ trợ Brick and Chidambaran (2010), những người cho rằng các cuộc họp HĐQT thường xuyên là một cam kết tiếp tục chia sẻ thông tin với nhà quản lý.

Giả thiết H3: Tần suất các cuộc họp của HĐQT có mối quan hệ cùng chiều với mức độ công bố thông tin.

- Tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT

Thành viên HĐQT không điều hành là thành viên thuộc HĐQT nhưng không tham gia vào việc điều hành công ty và không có bất kỳ lợi ích nào với công ty. Số lượng thành viên HĐQT không điều hành có xu hướng gia tăng khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, theo

Shivdasani và Yermack (1996) cho rằng, các thành viên HĐQT không điều hành sẽ làm gia tăng suất sinh lời cho cổ đông và các thành viên HĐQT không điều hành có mối quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động công ty. Những công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành cao hơn sẽ hạn chế được gian lận về BCTC do có được sự kiểm soát tốt hơn từ các thành viên HĐQT không điều hành này số lượng thành viên không điều hành ảnh hưởng cùng chiều tới mức độ công bố thông tin. (Cheng and Courtenary, 2006; Barako et al, 2006).

Giả thiết H4: Tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT ảnh hưởng cùng chiều với mức độ công bố thông tin.

- Quy mô HĐQT

Đã có nhiều nghiên cứu về tác động đặc điểm của quy mô HĐQT đến hiệu quả hoạt động công ty. Đa số các tác giả lập luận rằng, ban đầu HĐQT có quy mô lớn sẽ có những thuận lợi cho công ty trong việc nâng cao chức năng của ban quản trị như việc hỗ trợ tư vấn, giảm chuyên quyền của các nhà quản lý, tận dụng được nhiều mối quan hệ của các thành viên HĐQT. Tuy nhiên, khi quy mô HĐQT tăng lên một mức nào đó, sẽ xuất hiện những tính phi hiệu quả làm ảnh hưởng bất lợi đến những lợi nhuận ban đầu.

Ngoài ra, công ty có quy mô HĐQT lớn sẽ có nhiều trách nhiệm hơn trong việc quản lý, giám sát và miễn nhiệm những ban điều hành kém hiệu quả. Công ty có quy mô HĐQT lớn sẽ có nhiều trách nhiệm hơn tác động cùng chiều với mức độ công bố thông tin. Barako et al (2006).

Giả thiết H5: Quy mô HĐQT có mối quan hệ cùng chiều với mức độ công bố thông tin.

- Quyền kiêm nhiệm

Nhiều nghiên cứu cho rằng, quyền kiêm nhiệm làm giảm tính độc lập của HĐQT, tuy nhiên tồn tại những quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa quyền kiêm nhiệm với mức độ công bố thông tin. Vai trò của HĐQT trong việc giám sát các nhà quản lý sẽ bị cản trở khi có sự chuyên quyền về quản lý và kiểm soát các quyết định. Xung đột về lợi ích và chi phí đại diện có khuynh hướng tăng cao hơn khi một cá nhân cùng đảm nhận hai vị trí.

Nhiều nghiên cứu cho rằng sự tách biệt giữa chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc/giám đốc tác động cùng chiều với mức độ CBTT Ana Gisbert, Begona Navallas (2013).

Giả thiết H6: Khi có sự tách biệt giữa Chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc/giám đốc thì mức độ công bố thông tin càng tăng.

2.2. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng. Sử dụng các kỹ thuật phân tích: Thống kê mô tả, phân tích mô hình hồi quy. Thang đo của các biến độc lập và biến phụ thuộc được thiết kế dựa theo các nghiên cứu trước đó.

Phương pháp chọn mẫu: Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên. Số mẫu được chọn trong bài nghiên cứu là 100 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác giả đã đề xuất mô hình hồi quy để kiểm định các giả thuyết trên có dạng như sau:

I = β0 + β1 tỷ lệ thành viên độc lập trong HĐQT(TVDL) + β2 tỷ lệ sở hữu vốn của HĐQT(SHV) + β3 tần suất các cuộc họp HĐQT(TSHOP) + β4 tỷ lệ thành viên không điều hành trong HĐQT (TVKDL) + β5 quy mô HĐQT(SIZE) + β6 quyền kiêm nhiệm (QKN) + ε

Với I: Mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính

      β0: Hệ số chặn

      β1, β2, β3, β4, β5, β6: Các tham số chưa biết của mô hình

    ε: Sai số của mô hình

3. Kết quả nghiên cứu

Trước khi đi vào phân tích hồi qui ta đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi qui tuyến tính đa biến như sau:

Bảng 3.1 cho thấy, giá trị hệ số R2 hiệu chỉnh là 0.861, nghĩa là mô hình hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với dữ liệu 86,1%. Nói cách khác, biến phụ thuộc được giải thích 86,1% bởi các biến độc lập trên.

Căn cứ vào Bảng 3.2, phương trình hồi qui tuyến tính bội của các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên BCTC tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh với các hệ số chuẩn hóa như sau:

CBTT = 0,554 TSHOP + 0,415 TVDL + 0,334 TVKDH + 0,273 SIZE

                                       + 0,230 QKN – 0,443SHV

4. Kiến nghị

4.1. Kiến nghị đối với nhà đầu tư

Phần lớn các nhà đầu tư ở Việt Nam còn hạn chế về khả năng phân tích, đọc hiểu nội dung của BCTC, đa phần là đầu tư theo nhóm, theo số đông và phong trào cộng với sự thay đổi thất thường của TTCK ở Việt Nam, nên khi đưa ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư cần thận trọng, hiểu rõ thực trạng doanh nghiệp mà mình dự tính đầu tư. Nhà đầu tư nên tự trang bị cho mình những vốn kiến thức cần thiết cộng với nắm rõ các quy định pháp lý, để hiểu được doanh nghiệp đó công bố thông tin có chính xác.

Thường xuyên theo dõi thông tin được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để nắm được các doanh nghiệp nào thường xuyên vi phạm quy định công bố thông tin để có thể đầu tư vốn một cách hợp lý.

4.2. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

Hoàn thiện pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán phải bảo đảm hài hòa với các chính sách khác trong từng giai đoạn phát triển của đất nước như việc kiềm chế lạm phát, khống chế nợ tín dụng cho vay chứng khoán... để bảo đảm TTCK phát triển ổn định và bền vững.

Tăng cường giám sát các doanh nghiệp hoạt động các công ty này thường phát hành trễ bởi xu hướng giấu những tin xấu đến mức có thể trước các cổ đông và người sử dụng thông tin, làm cho thông tin trên thị trường bị mất cân xứng.

Tăng cường phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng trong việc truyền thông về thông tin trên thị trường chứng khoán, đây là vấn đề rất cần thiết đặc biệt cho những người quan tâm tới mức độ công bố thông tin của thị trường chứng khoán. Ở các phương tiện đó, những doanh nghiệp vi phạm, xử phạt phải được công bố thông tin rộng rãi, để các nhà đầu tư có thể nắm được thông tin cũng như nếu có khắc phục hậu quả phải cam kết thời gian và biện pháp sao cho cụ thể, hợp lý. Khuyến khích các công ty công bố thông tin bằng tiếng Anh để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài góp phần hội nhập quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Adina P. and Ion P., 2008. Aspects Regarding Corprate Mandatory and Voluntary Disclosure.Annals Faculty of Economics Journal 3.

2. Ana Gisbert, Begona Navallas, 2013. The association between voluntary disclosure and coporate governance in the presence of severe agency conflicts. Advances in Accounting, Vol 29, Issue 2, 286 - 298.

3. Barako et al., 2006. Relationship between Corporate Governance Attributes and Voluntary Disclosures in Annual Reports: The Kenyan Experiences. Financial Reporting, Regulation and Governance, 5(1).

4. Barros et al., 2013. Corporate governance and voluntary disclosure in France. Journal of Applied Business Research (JABR), 29(2), 561- 578.

5. Beasley, M. S. (1996). An empirical analysis of the relationship between the board of directors composition and financial statement fraud, The Accounting Review 71, 443-465.

6. Cheng and Courtenay, 2006. Board composition, regulatory regime and

voluntary disclosure, The International Journal of Accounting 41 (2006) 262–289.

7. Entwistle, G.M. (1999), Exploring the R&D disclosure environment. Accounting Horizons.

8. Mohammed Hossain, Helmi Hammami, 2009. Voluntary disclosure in the annual reports of an emerging country: The case of Qatar. Advances in Accounting, Vol 25, Issue 2, 255-265.

9. Shazrul Ekhmar Abdul Rzaka, Mazlina Mustaphab, 2013. Corporate Social Responsibility Disclosure and Board Structure: Evidence from Malaysia. Jurnal Teknologi, 64(3). pp.73-80.

10. Nikos Vafeas, 1999. Board meeting frequency and firm performance. Journal of Financial Economics, 1999, vol. 53, issue 1, pages 113-142.

IMPACTS OF THE BOARD OF DIRECTORS

CHARACTERISTICS ON THE LEVELS OF DISCLOSURE

OF INFORMATION ON FINANCIAL STATEMENTS

OF COMPANIES LISTED ON THE HOSE

Ph.D. PHAM NGOC TOAN

University of Economics Ho Chi Minh City

Master. NGUYEN THANH LONG

Ho Chi Minh City College of Transport 3

ABSTRACT:

Identifying and evaluating the impacts of the Board of Director’s characteristics on the levels of disclosure of information on financial statements of companies listed on the Ho Chi Minh City Stock Exchange (HoSE) are an essential task. The results of this study show that there are statistical significance results among the size of the board, the independent members of the board, the non-executive members of the board, the frequency of meetings of the board, the right to concurrent of the members of the board. In addition, the percentage of ownership of the board has a negative relationship with the levels of disclosure of information on financial statements. Based on the results, the study proposes some realistic solutions that could enhance the levels of disclosure of information on financial statements of companies listed on the HoSE.

Keywords: Board of directors, financial statements, stock exchanges, Ho Chi Minh City.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 04 + 05 tháng 04/2017 tại đây