Tóm tắt:
Công tác cải cách thể chế nhằm góp phần phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo sẽ tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị - trật tự xã hội và góp phần xây dựng chính quyền số... Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong xây dựng được một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Từ khóa: thể chế hành chính, cải cách thể chế, kinh tế số, chuyển đổi số, đô thị sáng tạo.
1. Nhận thức về cải cách thể chế và mối quan hệ giữa chuyển đổi số với kinh tế số và đô thị sáng tạo
1.1. Thể chế, cải cách thể chế
Thể chế là hệ thống pháp chế gồm: hiến pháp, các bộ luật, các quy định, các quy tắc, chế định…, nhằm hài hòa các quyền lợi và trách nhiệm của mỗi công dân, mọi tổ chức trong một trật tự xã hội, hướng tới sự tổng hòa các lợi ích của cộng đồng[1]; là những nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội; định hình cách thức ứng xử của các thành viên trong xã hội và điều chỉnh sự vận hành xã hội.
Từ điển Luật học định nghĩa thể chế là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo”[2]. Thể chế cũng có thể được hiểu là tổng thể các quy định, các nguyên tắc xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, tạo lập nên “luật chơi” trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.[3]
Nội dung của cải cách thể chế bao gồm:
- Nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội. Đảm bảo sự tuân thủ chấp hành và tổ chức thực hiện nghiêm các quy định pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và người dân. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông để giảm sự phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
- Thường xuyên thực hiện công tác rà soát các văn bản pháp luật đã ban hành và kiểm soát các thủ tục hành chính hiện hành để kịp thời phát hiện các văn bản và các thủ tục không còn phù hợp với thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan có thẩm quyền, của cán bộ, công chức trước nhà nước, trước người dân về công tác cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính.
1.2. Sự tác động qua lại giữa chuyển đổi số với kinh tế số và đô thị sáng tạo
Có thể nói, chuyển đổi số (Digital Transformation) là khái niệm ra đời trong thời đại Internet bùng nổ, đang trở nên phổ biến trong nhiều năm gần đây, mô tả việc ứng dụng công nghệ số (Digitalize) vào tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội, của cơ quan, tổ chức. Nếu đạt hiệu quả, hoạt động này sẽ thay đổi toàn diện (Transformation) cách thức mà cơ quan, đơn vị, tổ chức hoạt động; tăng hiệu quả hợp tác, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho toàn xã hội. Như vậy, mặc dù có nhiều cách diễn giải khác nhau, có thể hiểu ngắn gọn rằng “Chuyển đổi số là quá trình con người thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi phương thức sống và làm việc với các công nghệ số”.
Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong xây dựng được một chương trình chuyên đề về chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột chính là Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Ở cấp độ quốc gia số, xã hội số cùng với Chính phủ số và kinh tế số tạo thành 3 trụ cột bền vững, không thể tách rời. Do đó, để quá trình cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo muốn đạt hiệu quả cao, cần chú ý đến việc đồng bộ 3 trụ cột trên, tức là phát triển cùng lúc cả 3 trụ cột nhằm tạo ra sự toàn diện, có tính thống nhất cao.
Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/1/2020 về “Thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam” đã đưa ra nhận định: Dựa trên nền tảng của nhiều công nghệ mới mà cốt lõi là công nghệ số (trí tuệ nhân tạo, học máy sâu, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật, ...), chuyển đổi số đang tạo ra không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, Chính phủ điện tử. Đặc biệt, chuyển đổi số mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển trong quá trình phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo.
Do đó, các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển, sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số - các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam - để thúc đẩy đổi mới sáng tạo (đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại) đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân. Điều đó cho thấy được tầm qua trọng của việc áp dụng chuyển đổi số vào phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo.
“Đô thị sáng tạo là nơi có các hoạt động sáng tạo và khởi nghiệp diễn ra với cường độ và mật độ cao. Có thể nói, đô thị sáng tạo là " không gian sáng tạo" tập trung đổi mới về khoa học - kỹ thuật và công nghệ, đa ngành với với mật đô cao”.[4] Trên thế giới, nhiều quốc gia phát triển đã chú trọng đầu tư mô hình khu công nghệ cao và khu công viên khoa học, cả hai đều là tiền thân của đô thị khoa học công nghệ cao và "đô thị sáng tạo", bởi vì chúng có tiềm năng sáng tạo.
Việc kết nối các đô thị chức năng sẽ trở thành hệ sinh thái sáng tạo khép kín tương đồng với một số mô hình đô thị sáng tạo trên thế giới. Ở đó, với đặc trưng kết nối cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, các cơ sở khoa học - giáo dục, tài chính và cơ quan nhà nước trong một không gian đô thị gây được cảm hứng cho doanh nghiệp sáng tạo. Và hệ sinh thái khởi nghiệp, theo chiến lược "cùng thắng" để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, các viện, trường, các công ty tài chính, tăng trưởng cao cho Nhà nước và nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư và là động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội tăng trưởng nhanh.
2. Cải cách thể chế - Một trong những nội dung quan trọng của hoạt động phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
2.1. Sự cần thiết phải cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
Tại Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo đã mang đến một số tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội như phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tinh gọn bộ máy tổ chức, khuyến khích, nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; góp phần giảm ùn tắc giao thông, giảm ô nhiễm môi trường; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm, các dự án chỉnh trang, phát triển đô thị sáng tạo tại các thành phố lớn; thay đổi bộ mặt của nông thôn; thu hút chuyên gia, nhà khoa học, nhân tài đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Đồng thời, việc xây dựng hành lang pháp lý, đẩy mạnh ủy quyền cho cơ quan chuyên môn, địa phương đã tạo sự chủ động, linh hoạt và đẩy nhanh tiến độ giải quyết thủ tục, hồ sơ hành chính trong các lĩnh vực có liên quan, góp phần phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và cải thiện, nâng cao sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp đối với cơ quan, tổ chức. Theo đó, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ.
Nhiều ứng dụng công nghệ số được sử dụng mạnh mẽ và rộng rãi đặc biệt từ năm 2020 đến nay, khi dịch bệnh Covid-19 tác động mạnh mẽ trên thế giới và cả ở Việt Nam minh chứng một điều về tiện ích của công nghệ này và khả năng của Việt Nam khi phát triển nền kinh tế số trong thực tiễn. Kinh tế số đã có nhiều đóng góp thiết thực trong quá trình hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi công nghệ toàn cầu, cũng như giúp cho sự điều hành của Chính phủ được thuận lợi nhất.
Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, việc có một khung pháp lý hoàn chỉnh sẽ góp phần thay đổi bộ mặt đô thị. Giúp cho các cơ quan nhà nước có công cụ để đổi mới quản lý phù hợp, chủ động, sáng tạo phù hợp với xu thế và cuộc cách mạng công nghiệp. Chính vì thế, việc cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo là một yêu cầu cấp bách của Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng. Kinh tế số và đô thị sáng tạo thực chất là quá trình chuyển đổi tư duy và hành động của con người từ môi trường vật chất sang môi trường số hóa. Trong đó, đổi mới nhận thức để quản lý thông qua thể chế là phần quan trọng nhất của việc thực hiện phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo.
2.2. Thực trạng cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo tại Việt Nam trong những năm qua
2.2.1. Những kết quả đạt được
- Về tình hình triển khai xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để phát triển kinh tế số:
Từ năm 2009, Việt Nam đã ban hành Luật Công nghệ cao; năm 2010, ban hành Chương trình Quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 với 3 chương trình thành phần, gồm Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, Chương trình Phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao và Chương trình Nghiên cứu, đào tạo và xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao với mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu, làm chủ và tạo ra công nghệ cao; ứng dụng hiệu quả công nghệ cao trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; sản xuất sản phẩm, hình thành doanh nghiệp và phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết về vấn đề này: Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 1/1/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 đã đề ra các nhiệm vụ thúc đẩy kinh tế số, như xây dựng giải pháp phát triển nhân lực quốc gia đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0; xây dựng Chiến lược Quốc gia về CMCN 4.0; phát triển bứt phá hạ tầng viễn thông, Internet băng thông rộng và mạng di động 5G; xây dựng Đề án chuyển đổi số quốc gia,v.v… Chỉ thị số 01/CT-TTg tháng 01/2020 về thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam nêu rõ các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam cần đi đầu, tạo đột phá trong thực hiện chiến lược “Make in Viet Nam”. Cùng với đó, khung khổ pháp lý có những bước tiến nhất định với nhiều bộ luật, như: Luật Giao dịch điện tử (2005), Luật Công nghệ thông tin (2006), Luật Tần số vô tuyến điện (2009), Luật An ninh mạng (2018),…
Hiện nay, Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, cải cách mạnh mẽ nền hành chính theo hướng số hóa và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính phủ đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm phần mềm quốc tế, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, phát triển các thành phố thông minh, tăng cường các cơ chế chính sách và đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp. Với quyết tâm chính trị, nền tảng thể chế và công nghệ ở mức khá tích cực, đây là cơ sở để Việt Nam tự tin về khả năng chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số.
- Về xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật để phát triển đô thị sáng tạo:
Để xây dựng và phát triển đô thị thông minh - nền tảng của đô thị sáng tạo có thể thấy rõ yêu cầu đổi mới thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật đang được đặt lên hàng ưu tiên. Hiện tại, nền tảng pháp luật gồm các văn bản quy phạm, các cơ chế chính sách phát triển đô thị thông minh bền vững tại Việt Nam đang được rà soát, hoàn thiện. Cụ thể, đã ban hành một số tiêu chuẩn về phát triển đô thị thông minh (Bộ Khoa học và Công nghệ), khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh phiên bản 1.0, xây dựng Bộ chỉ số thông minh đến giai đoạn 2025 (Bộ Thông tin và Truyền thông). Các vấn đề đang tiếp tục nghiên cứu gồm hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngành xây dựng phục vụ phát triển đô thị thông minh; quản lý dự án phát triển đô thị có quy mô lớn ứng dụng giải pháp đô thị thông minh; xây dựng chương trình thí điểm phát triển đô thị vùng đồng bằng sông Cửu Long thông minh... Tuy nhiên, ở góc độ nhà đầu tư, bài toán thể chế còn nhiều đầu mục chưa hoàn tất.
2.2.2. Những hạn chế trong công tác cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo ở Việt Nam
Hiện nay đã có khá nhiều văn bản pháp luật từng bước được ban hành để điều chỉnh quan hệ của các chủ thể tham gia cuộc cách mạng 4.0 như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật An ninh mạng năm 2018. Tuy nhiên, khung pháp lý này hiện cũng bộc lộ một số tồn tại do môi trường pháp lý còn bất cập, thiếu đồng bộ giữa các văn bản pháp luật; còn có khoảng cách giữa quy định pháp luật với việc thực thi trong thực tế. Các quy định thường không theo kịp với tốc độ số hóa nhanh chóng của nền kinh tế.
3. Giải pháp trong cải cách thể chế nhằm tạo bước đột phá để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
3.1. Tăng cường hoàn thiện khung pháp lý - Nhất là thể chế phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế số để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao là nhiệm vụ cấp thiết và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Theo đó, để xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế số, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và trở thành động lực của nền kinh tế, cần bảo đảm nguyên tắc: Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt loại hình, thành phần kinh tế trong cơ hội tiếp cận các nguồn lực như: khoa học công nghệ, vốn, tài nguyên, đất đai... và đầu tư kinh doanh
Với tinh thần đó, các quy định pháp luật về kinh tế số được xây dựng tránh can thiệp sâu vào các hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp, trừ trường hợp nhằm đảm bảo các lợi ích công cộng chính đáng như bảo đảm an toàn, sức khỏe cộng đồng. Từ đó, mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là tạo lập hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh doanh, thương mại điện tử được tiến hành một cách minh bạch, trên cơ sở tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Phải có các quy định pháp luật và chính sách phù hợp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển kinh tế trong bối cảnh chuyển đổi số như xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, thương mại điện tử… Tăng cường hoạt động bổ trợ tư pháp, tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng các hoạt động bổ trợ tư pháp như: công chứng, luật sư, tư vấn, giám định tư pháp… đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ cải thiện môi trường kinh doanh cần nghiên cứu các luật liên quan đến thị trường số, kinh tế số… Trong đó, cần hoàn thiện khung pháp luật về hồ sơ, hợp đồng thông minh, những thỏa thuận được tự động thực thi bằng máy tính. Với những ưu điểm như bảo đảm tính minh bạch, sự tin cậy, chắc chắn trong thực thi và giảm chi phí giao dịch, hợp đồng thông minh được coi là có tiềm năng phát triển rất lớn và đang rất được cộng đồng quốc tế quan tâm.
3.2. Tiếp tục có cơ chế, chính sách để tận dụng tiềm lực của các địa phương và phát huy triệt để nguồn lực con người trong phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
Mỗi địa phương trong cả nước đều có các tiềm lực riêng. Cần có các cơ chế để tận dụng, khai thác tối đa các tiềm lực phát triển đấy. Muốn làm được đếu này, cần có sự thống nhất trong chỉ đạo từ Trung ương đến các địa phương. Tập trung xây dựng liên kết vùng để kịp thời phát hiện và hỗ trợ các địa phương phát triển kinh tế - xã hội. Tận dụng tối đa tiềm lực của các địa phương trong phát triển lợi thế cạnh tranh thông qua ưu đãi chính sách đối với các địa phương đó.
Việt Nam nên xây dựng các chính sách để thu hút và giữ chân người tài, tránh trường hợp “chảy máu chất xám” ra ngoài. Ngoài xây dựng chính sách giữ người tài, còn phải có chính sách đào tạo - bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm phát triển kinh tế tri thức - kinh tế số và bổ sung nguồn lực chất lượng đáp ứng cho yêu cầu cho xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
3.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế để xây dựng đô thị sáng tạo
Chiến lược phát triển đô thị sáng tạo phải là đô thị thông minh và xanh, trong đó đô thị luôn gắn với thiên nhiên, là không gian mở và không gian giao tiếp có liên quan đến sự thay đổi về văn hóa thị dân trong thời kỳ hậu hiện đại, là tầm quan trọng của xã hội nhân văn với con người đô thị cởi mở hơn, "sáng tạo hơn và sống tốt hơn", do vậy có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, các người tài để cùng với cộng đồng xã hội làm nên nhiều của cải xã hội.
Cần có hạ tầng cơ sở đồng bộ đặc biệt là giao thông và viễn thông. Có chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài phục vụ cho cuộc cách mạng 4.0. Đặc biệt phải có cơ chế đặc thù để nuôi dưỡng hệ sinh thái sáng tạo hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác hiệu quả hơn giữa các nhà: nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà đầu tư, nhà nước và các cộng đồng dân cư. Ngoài ra, cần phải xây dựng các quy định để người dân và doanh nghiệp nắm vững và thực hiện đúng chính sách của Nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số. Họ phải hiểu họ là đối tượng thụ hưởng của chương trình đô thị thông minh - đô thị sáng tạo. Việc người dân và doanh nghiệp chủ động nhận thức và tiếp nhận, phát huy được tiềm năng của mình trong chương trình chuyển đổi số vào đời sống của mình, là một cơ sở quan trọng để hình thành một xã hội số trong tương lai của các đô thị sáng tạo.
3.4. Hoàn thiện thể chế để xây dựng chính quyền số - Chính quyền sáng tạo để phục vụ nhân dân ở các đô thị sáng tạo
Cần có thể chế hoàn thiện thể chế để phát huy được mô hình chính quyền số - chính quyền phục vụ, kiến tạo phát triển về tổ chức và hoạt động theo chương trình chuyển đổi số để phục vụ nhân dân. Cụ thể: Chính quyền số - Chính quyền phục vụ nhân dân là chính quyền đưa toàn bộ hoạt động lên môi trường số, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu. Chính quyền phải luôn gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của nhân dân. Xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Chính quyền số, kiến tạo, phục vụ nhân dân là chính quyền tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ đất nước, nhân dân được quyền kiểm soát hoạt động của Nhà nước thông qua môi trường số. Nhân dân thông qua cơ chế dân chủ để thực thi quyền lực nhưng đồng thời nhân dân có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nước.
Về phía đội ngũ cán bộ, công chức, đây là lực lượng chủ yếu trong suốt quá trình thực hiện đổi mới quản lý trong bối cảnh chuyển đổi số. Việc nhận thức đúng của cán bộ, công chức sẽ là động lực cho chính quyền số phát triển, vì chính họ là người vận hành nền hành chính thông qua việc khai thác thông tin, cơ sở dữ liệu để thực thi công vụ. Một chính quyền số muốn duy trì thì cần một đội ngũ “Cán bộ, công chức số” để vận hành, mà ở đây nhận thức là bước đầu tiên để những cán bộ, công chức chủ động tiếp cận với chuyển đổi số.
Việt Nam cần có những quy định pháp luật để tiếp tục phát triển chính quyền điện tử theo 3 định hướng, đó là: hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quy hoạch tích hợp hệ thống thông tin trên nền tảng kết nối, chia sẻ; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công thông qua việc xây dựng môi trường thông tin điện tử cho các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và toàn xã hội, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao; nâng cao nhận thức người dân, chú trọng tới lợi ích của tổ chức và công dân, lấy người dân làm trọng tâm, rút ngắn khoảng cách giữa người dân với các cơ quan nhà nước thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Đặc biệt, tích cực triển khai đồng loạt và sâu rộng các giải pháp nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là xây dựng một chính quyền điện tử đúng nghĩa với các công chức điện tử, cơ quan điện tử, doanh nghiệp điện tử và công dân điện tử.
3.5. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về cải cách hành chính nhằm tạo động lực để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030. Theo Nghị quyết 76[5], trong các nhiệm vụ cải cách hành chính có nhiệm vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Để triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh cải cách hành chính, các địa phương cần sớm ban hành Quyết định về chương trình cải cách hành chính trên địa bàn địa phương trong giai đoạn mới. Theo đó, các địa phương cần tập trung triển khai kế hoạch cải cách hành chính trên địa bàn đồng bộ và có hiệu quả với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030. Khuyến khích sự sáng tạo, cải tiến trong cải cách hành chính; đặc biệt, cải thiện sự hài lòng của người dân theo hướng thực chất hơn, tương ứng với tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn.
Chính quyền của các địa phương cần có một chiến lược cụ thể để cải cách hành chính trên các mặt về thể chế, thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ công chức, tài chính công và xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số nhằm xây dựng một chính quyền số, kiến tạo, phát triển, hiệu quả, hướng đến phục vụ nhân dân. Vì vậy, các nội dung cải cách phải bảo đảm tính hệ thống, tính khả thi của quá trình xây dựng một nền hành chính mới, một mô hình tổ chức quản lý phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo.
3.6. Hoàn thiện hơn nữa công tác xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo
Nâng cao chất lượng xây dựng dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội để làm cơ sở phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo. Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công chức làm công tác xây dựng văn bản pháp luật nhằm nâng cao chất lượng của thể chế. Thường xuyên lấy ý kiến đóng góp của người dân, doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan về nội dung xây dựng văn bản pháp luật để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, khả thi của văn bản.
Nâng cao chất lượng thẩm định văn bản cả về nội dung và hình thức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thường xuyên thực hiện công tác rà soát các văn bản pháp luật đã ban hành và kiểm soát các thủ tục hành chính hiện hành để kịp thời phát hiện các văn bản và các thủ tục không còn phù hợp với thực tiễn để sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp. Tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan có thẩm quyền, của cán bộ công chức trước nhà nước, trước người dân về công tác cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính trong phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo.
4. Kết luận
Việc triển khai cải cách thể chế để phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo tại Việt Nam nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và mong đợi của người dân, tổ chức về một nền hành chính chuyên nghiệp, năng động, minh bạch, hiệu quả. Nhiều công cụ theo dõi, đánh giá cải cách hành chính nói chung và cải cách thể chế nói riêng đã được xây dựng và triển khai nhằm đánh giá cụ thể, khách quan kết quả đạt được trong phục vụ nhân dân và đổi mới quản lý. Bộ mặt của nền hành chính nhà nước tại Việt Nam đã bước đầu thay đổi, hướng tới phục vụ nhân dân; xã hội. Công tác cải cách thể chế đã thực sự góp phần phát triển kinh tế số và đô thị sáng tạo sẽ tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị - trật tự xã hội và góp phần xây dựng chính quyền số - chính quyền thông minh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong tương lai sắp tới.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
[1] Nguyễn Thanh Tuyền, Nguyễn Lê Anh. Mối quan hệ hữu cơ giữa thể chế, cơ chế, chính sách, cơ chế điều hành và hành vi ứng xử. Truy cập tại: https://user-cdn.uef.edu.vn/newsimg/tap-chi-uef/2015-05-06-22/1-so-22.pdf”] Kiểm tra giá trị |url=(trợ giúp). line feed character trong |url= tại ký tự số 19.
[2] Tạp chí Tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ (2017). Thiết chế tổ chức, quản lý ở làng, xã đồng bằng Bắc Bộ thế kỷ XIX và những bài học kinh nghiệm. Truy cập tại: https://tcnn.vn/news/detail/37113/Thiet_che_to_chuc_quan_ly_o_lang_xa_dong_bang_
Bac_Bo_the_ky_XIX_va_nhung_bai_hoc_kinh_nghiemall.html
[3] Hoàng Minh Hội (2019). Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước đối với chính quyền địa phương: Thực trạng và giải pháp.
[4] Nguyễn Đăng Sơn (2020). Hiểu thế nào cho đúng về khu đô thị sáng tạo - thành phố Thủ Đức. Truy cập tại: https://tuoitre.vn/hieu-the-nao-cho-dung-ve-khu-do-thi-sang-tao-thanh-pho-thu-duc-20200924114337909.htm
[5] Chính phủ (2021). Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bộ Thông tin và Truyền thông (2020). Cẩm nang Chuyển đổi số.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2003). Những giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Thảo (2020). Định hình nền kinh tế số hướng tới hình thành khung khổ chính sách - Kinh nghiệm nghiên cứu quốc tế. Truy cập tại: https://aita.gov.vn/dinh-hinh-nen-kinh-te-so-huong-toi-hinh-thanh-khung-kho-chinh-sach-%E2%80%93-kinh-nghiem-nghien-cuu-quoc-te-.
Institutional reform – A breakthrough for the development
of the digital economy and creative cities in Vietnam
Master. Nguyen Thi Phuong Oanh
Faculty of State and Law, Ho Chi Minh City Cadets Academy
Abstract:
Institutional reform would contribute to the development of the digital economy and creative cities. It would also contribute to the achievements of socio-economic development, political stability and social order, digital government development, etc. Vietnam is one of the pioneering countries that have built a specific national digital transformation plan with three main pillars, including: Digital government, Digital economy, and Digital society. The building and perfecting of institutions for the development of the digital economy and creative cities in Vietnam have brought some positive impacts on many socio-economic aspects. This paper explores the institutional reform for developing a digital economy and creative cities in the context of digital transformation in Vietnam.
Keywords: administrative institutions, institutional reform, digital economy, digital transformation, creative city.