Báo cáo mới nhất của Hinrich Foundation cho biết “Mọi người bắt đầu thảo luận về sự phụ thuộc vào Trung Quốc kể từ khi cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc bùng phát. Những gián đoạn mới đây đã khiến nhiều quốc gia đánh giá lại về mức độ rủi ro đối với chuỗi cung ứng của mình”. Hinrich Foundation là tổ chức phi lợi nhuận thúc đẩy thương mại toàn cầu bền vững.
Theo đó, Nhật Bản và các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU) đang tìm cách đảm bảo chuỗi cung ứng của mình trong hệ thống thương mại toàn cầu mà không khiến chi phí tăng lên quá cao. Đông Nam Á đang trở thành một trong những địa điểm lý tưởng để các quốc gia này tái bố trí chuỗi cung ứng.
Theo Hinrich Foundation, EU và Nhật Bản hiện chiếm đến 12% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đông Nam Á trong vòng 5 năm trở lại đây; trong khi đó, con số này đối với thị trường Trung Quốc là 8%. Ông Stewart Paterson, nhà nghiên cứu tại Hinrich Foundation, cho biết “Với mức GDP bình quân đầu người đạt 4.500 USD, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có thể đem đến nguồn lao động có chi phí thấp hơn so với Trung Quốc”.
Vai trò của ASEAN trong hệ thống thương mại toàn cầu cũng ngày càng được củng cố. Trong giai đoạn 2016 – 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu của ASEAN đã tăng thêm 21% lên 1.390 tỷ USD; trong khi đó, xuất khẩu của Trung Quốc tăng 23%, đạt 2.590 tỷ USD. Đáng chú ý, tỷ lệ thương mại trên GDP của ASEAN cao hơn so với mức trung bình toàn cầu.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, Trung Quốc đang là nhân tố lớn tác động vào tăng trưởng thương mại của ASEAN. Xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc trong 5 năm vừa qua đã tăng tới 51%; trong khi đó, xuất khẩu của ASEAN sang các quốc gia khác trên thế giới chỉ tăng 16%.
Ông Stewart Paterson cho biết mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp tại EU và Nhật Bản khác với tại Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, các tập đoàn đa quốc gia thường độc lập với những chương trình nghị sự mà chính phủ đưa ra. Điều này có thể giúp nỗ lực của EU và Nhật Bản đạt hiệu quả hơn những nỗ lực trước đó của Hoa Kỳ trong việc đa dạng hoá chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc.
Việc Nhật Bản thông qua Luật An ninh Kinh tế mới và chính sách Cổng toàn cầu của EU cho thấy sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ tại những quốc gia này và giới doanh nghiệp đối với những chính sách đảm bảo duy trì dòng chảy sản xuất chế tạo.
Trên thực tế, bản thân các doanh nghiệp Hoa Kỳ cũng đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc. Ví dụ, tập đoàn công nghệ hàng đầu Hoa Kỳ Apple chuẩn bị dời một dây chuyền sản xuất iPad từ Trung Quốc sang Việt Nam sau khi các lệnh phong tỏa ở nhiều thành phố lớn của Trung Quốc gây gián đoạn nghiêm trọng đối với hoạt động sản xuất và vận tải.
BYD, một trong những đối tác lắp ráp iPad lớn cho Apple, cũng đã xây dựng dây chuyền ở Việt Nam để gia công sản xuất. Trước đó, một số tổ chức phân tích cho biết mẫu tai nghe không dây AirPods Pro thế hệ 2 của Apple sẽ được sản xuất đại trà tại Việt Nam từ nửa cuối năm nay. Sự dịch chuyển của Apple khỏi Trung Quốc sau nhiều năm thiết lập mạng lưới sản xuất tại đây được cho là bắt nguồn từ những gián đoạn chuỗi cung ứng khi Trung Quốc theo đuổi chiến lược “Không ca nhiễm Covid-19”
Việt Nam hiện là cứ điểm sản xuất điện thoại lớn nhất của tập đoàn công nghệ Hàn Quốc Samsung. Luxshare Precision Industry Co., hãng sản xuất đồ điện tử hàng đầu Trung Quốc, cũng đang sản xuất tai nghe AirPods cho Apple tại Việt Nam. Luxshare cho biết một số khách hàng của tập đoàn này lo ngại về vấn đề thiếu hụt nguồn cung điện và các biện pháp phong toả phòng chống dịch Covid-19 chặt chẽ tại Trung Quốc
Kể từ tháng 3, Trung Quốc đã phong tỏa hàng loạt thành phố lớn để đối phó với làn sóng lây nhiễm Covid-19 mới. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất và vận chuyển hàng hoá của cả những khu vực không ghi nhận ca nhiễm Covid-19 nào tại Trung Quốc, kéo theo đó là sự đình trệ sản xuất tại nhiều nơi trên thế giới do thiếu hụt hàng hoá đầu vào.
Đến nay, các nhà máy tại Trung Quốc đã hoạt động trở lại nhưng tuân theo những quy tắc phòng chống bệnh nghiêm ngặt. Một số thành phố lớn của nước này cũng dần nới lỏng các biện pháp phong toả khi số ca nhiễm bệnh giảm xuống. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích cho rằng các doanh nghiệp nước này sẽ cân nhắc lại kế hoạch mở rộng sản xuất tại đây cũng như tìm cách giảm phụ thuộc vào chuỗi cung ứng tại Trung Quốc.