Theo quy định tại Biểu thuế xuất khẩu ban hành kèm Nghị định số 57/2020/NĐ-CP, mức thuế xuất khẩu áp dụng cho các mặt hàng đá được quy định tăng dần từ nguyên liệu thô đến thành phẩm, phù hợp với khung thuế suất thuế xuất khẩu và nguyên tắc hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế biến.
Qua rà soát mức thuế suất thuế xuất khẩu và mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với các mặt hàng khoáng sản hiện nay, có một số mặt hàng là tài nguyên khoáng sản như đá, chì, clanhke đang có thuế xuất khẩu thấp hơn nhiều so với mức trần khung thuế xuất khẩu cho phép của Quốc hội.
Đồng thời, trong thời gian qua, việc khai thác, xuất khẩu các mặt hàng tài nguyên khoáng diễn biến phức tạp. Nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng tăng nhanh, tiềm ần nguy cơ lãng phí tài nguyên quốc gia, ô nhiễm môi trường.
Để góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên trong nước, Bộ Tài chính đề xuất tăng thuế xuất khẩu một số nhóm hàng đá có mức thuế suất thuế xuất khẩu 5% lên 20%; mức 10%, 15% 17%, 20% lên 30% là mức sát với mức trần của Khung thuế xuất khẩu; điều chỉnh thuế xuất khẩu mặt hàng clanke từ 5% lên 10%.
Tuy nhiên, do việc tăng thuế xuất khẩu mặt hàng đá có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp trong các lĩnh vực này nên dự kiến việc tăng thuế sẽ được thực hiện theo lộ trình 2 năm để doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời, để tránh gian lận do việc chuyển từ mã số hàng hóa có thuế suất cao sang mã số có thuế suất thấp hơn, Bộ Tài chính cũng dự kiến trình Chính phủ điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng đá và sản phẩm làm từ đá (từ 5% lên 15%) để ngang bằng thuế suất với các nhóm hàng cùng chủng loại hoặc tương đồng. Tương tự, thuế xuất khẩu đối nhóm chì tăng từ 5% lên bằng với chì dạng thỏi 15%.
Trong quá trình thực hiện Nghị định số 57/2020/NĐ-CP đã phát sinh một số vướng mắc trong việc phân loại một số mặt hàng, dẫn đến vướng mắc trong việc xác định mã số và thuế suất đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, làm tăng chi phí giám định do phải xác định thành phần nhưng số thuế thu được do chênh lệch thuế không đáng kể.
Do đó, Bộ Tài chính dự kiến điều chỉnh hệ thống thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu MFN một số nhóm hàng hóa tương đồng về bản chất nhưng có mức thuế suất khác nhau. Cụ thể:
Mặt hàng vàng, trong quá trình thực hiện, tiêu chuẩn giữa các mặt hàng có thuế suất 0% và 2% rất khó phân biệt nên việc tính thuế đều căn cứ theo khai báo của doanh nghiệp, cơ quan hải quan không có đủ cơ sở để kiểm tra. Các công ty thực hiện giám định chất lượng vàng trước khi xuất khẩu đều thể hiện hàm lượng vàng dưới 95%, các chứng từ giám định lại của đối tác nước ngoài đều dưới 95%.
Để khắc phục những vướng mắc trên, đề xuất thống nhất chung 1 mức thuế suất đối với mặt hàng vàng, không phân biệt theo hàm lượng vàng như hiện nay (tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2%) và gộp dòng theo tên gọi mặt hàng theo đúng Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) mà Việt Nam đã ký kết, không chia cụ thể theo hàm lượng vàng để đơn giản hóa Biểu thuế.
Đối với mặt hàng bột thạch anh mịn, đề xuất bổ sung dòng sản phẩm bột oxit silic mịn có kích thước hạt từ 500 µm (micromet) trở xuống, hàm lượng SiO2 ≥ 99,3%; Fe2O3 ≤ 0,01%, độ ẩm ≤ 5% với mức thuế suất thuế xuất khẩu là 10% tương tự như mức thuế suất đang áp dụng đối với mã hàng 2505.10.00.10 (đang quy định tại Nghị định 57/2020/NĐ-CP).
Đối với mặt hàng hạt giống cây trồng, đề xuất áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN 0% đối với các mặt hàng hạt giống dùng để gieo trồng thuộc nhóm 12.07 và tách nhóm mặt hàng quả và hạt có dầu khác thuộc nhóm 12.07 dùng để gieo trồng vào Chương 98 với mức thuế suất thuế nhập khẩu 0% nhằm thống nhất chung mức thuế suất đối với các mặt hàng hạt, quả và mầm, dùng để gieo trồng thuộc nhóm 12.09 đang có thuế suất 0%.
Đối với mặt hàng lốp xe tải đặc chủng, đề xuất điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN mặt hàng này từ 20% xuống 10% để thống nhất với nhóm lốp xe ô tô khách, ô tô chở hàng có chiều rộng trên 450mm, đồng thời góp phần giảm chi phí đầu vào cho ngành khai khoáng vốn đang gặp khó khăn như hiện nay.
Đối với mặt hàng gỗ dán, Hiệp hội gỗ Lâm sản Việt Nam đề nghị tăng thuế xuất khẩu mặt hàng dăm gỗ thuộc nhóm 44.08 từ 10% lên 25%. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, mặt hàng gỗ dán không chỉ được sử dụng để làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất các mặt hàng đồ gỗ mà còn làm vật liệu trong ngành xây dựng, ván sàn.