Giải pháp xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam

ThS. LƯU HUỲNH (Khoa Quản trị kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật công nghiệp)

TÓM TẮT:

Hiện tại, việc xây dựng thương hiệu nông sản của Việt Nam mới dừng ở mức khuyến khích. Nhiều địa phương và doanh nghiệp chưa thực sự thấy rõ vai trò và ý nghĩa của việc xây dựng cũng như bảo vệ thương hiệu hàng nông sản, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng thương hiệu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Thương hiệu, xây dựng thương hiệu, xuất khẩu nông sản, kinh tế.

I. Thực trạng xây dựng thương hiệu cho nông sản xuất khẩu

Nông nghiệp luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, góp phần to lớn xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định chính trị - xã hội. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là yếu tố cơ bản, quan trọng, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới với tổng giá trị các mặt hàng nông sản xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng trên 30 tỷ USD.

Hiện nay, ngành Nông nghiệp có 10 sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu chính, trong đó có 8 sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (cà phê, cao su, gạo, thủy sản, điều, hồ tiêu, rau quả, gỗ và sản phẩm gỗ) và có mặt ở hầu hết các thị trường nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản…

Mặc dù vậy, các chuyên gia cho biết, có đến 90% nông sản của Việt Nam vẫn xuất khẩu dưới dạng thô, kim ngạch còn thấp do giá xuất khẩu thấp hơn các sản phẩm cùng loại của nhiều nước khác.

Bên cạnh đó, đến nay mới chỉ có một số sản phẩm nông sản Việt có tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý thương hiệu, như: ở cấp quốc gia hiện có CheViet, Gạo Việt Nam; ở cấp địa phương và doanh nghiệp, đối với trái cây có vải thiều Thanh Hà (Hải Dương), vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang), chôm chôm Chợ Lách, bưởi da xanh (Bến Tre), xoài cát Hòa Lộc, xoài Cát Chu (Đồng Tháp), quýt đường (Trà Vinh)…; đối với gạo có gạo tám xoan Hải Hậu (Nam Định), gạo Điện Biên (Điện Biên), gạo nàng thơm chợ Đào (nhãn hiệu tập thể, Long An)…; đối với cà phê có cà phê Buôn Ma Thuột; đối với hồ tiêu có hồ tiêu Chư Sê, hồ tiêu Phú Quốc, hồ tiêu Lộc Ninh, hồ tiêu Quảng Trị; đối với hạt điều có hạt điều Bình Phước…

Còn lại, hầu hết nông sản Việt chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác, thậm chí, nhiều sản phẩm được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài. Cụ thể, thống kê của Cục Sở hữu công nghiệp cho thấy, hiện mới chỉ có khoảng 15% trong hơn 90.000 thương hiệu hàng hóa được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam là của các doanh nghiệp trong nước và có đến hơn 80% hàng nông sản của ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài

Đơn cử như sản phẩm chè, hiện có tới 80% sản lượng chè sản xuất trong nước được xuất khẩu tới hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, song rất ít người tiêu dùng nước ngoài biết đến thương hiệu chè Việt Nam. Lý do là phần lớn chè của chúng ta được xuất khẩu ở dạng thô, rời, chưa được chế biến và gia công. Sau khi nhập về, các doanh nghiệp nước ngoài mới chế biến và sử dụng tên, thương hiệu của họ và bán dưới nhãn chè của nhiều nước như: Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc...

Hoặc về sản phẩm cà phê, dù Việt Nam là quốc gia đứng thứ hai thế giới về sản xuất cà phê, trong đó đứng đầu thế giới về cà phê robusta, song thực tế, tại thị trường nước ngoài, vẫn chưa có thương hiệu cà phê của Việt Nam theo đúng nghĩa. Lý do là cà phê nước ta chủ yếu chỉ bán hạt cho các nhà rang xay lớn trên thế giới, sau đó họ chế biến, đóng hộp với thương hiệu của họ để bán cho người tiêu dùng với giá gấp nhiều lần giá mua vào. Đây là một điều bất hợp lý nhưng dễ hiểu vì cà phê Việt Nam chưa có thương hiệu và việc quảng bá, xây dựng thương hiệu cà phê vẫn còn bỏ ngỏ.

Hiện tại, việc xây dựng thương hiệu nông sản của Việt Nam mới dừng ở mức khuyến khích. Nhiều địa phương và doanh nghiệp chưa thực sự thấy rõ vai trò và ý nghĩa của việc xây dựng cũng như bảo vệ thương hiệu hàng nông sản, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập. Doanh nghiệp thì hầu như chỉ mạnh ai nấy làm còn nói đến xây dựng thương hiệu ngành, khu vực thì đều khó có sự đồng thuận, hợp tác. Bên cạnh đó, hàng nông sản của Việt Nam chịu nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh khó kiểm soát… Khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, thiếu sự đầu tư cho công tác tiếp thị, nghiên cứu thị trường…, cũng là những yếu tố cản trở chiến lược xây dựng thương hiệu nông sản Việt.

Dưới góc nhìn của các nhà quản lí thương hiệu thì họ cho rằng: Với nhóm hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu, hầu hết đều xuất khẩu thông qua một số nhà nhập khẩu của nước ngoài hoặc một số đầu mối. Trên thị trường nước ngoài, người ta chỉ biết đến đó là sản phẩm của Việt Nam, người ta không biết đến sản phẩm đó do doanh nghiệp nào cung ứng ra thị trường. Đây chính là một bất lợi. Vì thế, việc xây dựng thương hiệu cho nông sản của Việt Nam rất cần phải có một đầu mối chung, đó chính là khai thác được thế mạnh của thương hiệu quốc gia gắn với các chỉ dẫn địa lý. Đây là một trong những định hướng mà rất nhiều quốc gia lớn trên thế giới đã làm.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, để nâng cao giá trị xuất khẩu nông sản trong xu thế hội nhập và ký kết nhiều Hiệp định tự do thương mại như hiện nay, cần phải quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, nhất là thương hiệu các mặt hàng nông sản. Trước mắt, cần lựa chọn một số mặt hàng có thế mạnh để xây dựng thương hiệu, đảm bảo các mặt hàng này phải đáp ứng được các yếu tố chính như khối lượng đủ lớn và ổn định, chất lượng đồng đều, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, giá bán cạnh tranh.

II. Giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản Việt xuất khẩu

1. Kiến nghị đối với Nhà nước

- Quy hoạch vùng sản xuất và thiết lập các vùng chuyên canh sản xuất: Nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam cần một chiến lược quy hoạch tổng thể như:

+ Từng cấp địa phương có quy hoạch riêng nhưng phải nằm trong tổng thể quy hoạch của vùng, khu vực. Quy hoạch sản xuất nông nghiệp không được trùng với quy hoạch phát triển công nghiệp.

+ Quy hoạch sản xuất nông nghiệp phải kết hợp với công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại phục vụ sản xuất và chế biến các sản phẩm nông nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.

+ Quy hoạch sản xuất nông nghiệp phải tiến hành đồng thời với chuyên môn hóa trong sản xuất và chuyên môn hóa trong lưu thông.

- Tăng cường mối quan hệ thông tin giữa những người nông dân trực tiếp sản xuất với các nhà khoa học:

Việc hỗ trợ, cung cấp giống chất lượng cao cho bà con nông dân là cần thiết để những loại nông sản độc đáo, chất lượng tốt nhanh chóng được phát triển ở nước ta, đồng thời đem đến lợi ích không chỉ cho bà con nông dân mà còn cho các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và góp phần thúc đẩy nghiên cứu, cải tiến giống mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tổ chức các chương trình nhằm cung cấp thông tin cho bà con nông dân về quy trình trồng trọt, kĩ thuật canh tác, cách thức sử dụng phân bón, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản nông sản một cách khoa học, hiệu quả mà gần gũi để nâng cao năng suất lao động, gia tăng sản lượng, sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao và đồng đều.

- Tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại cho ngành nông sản:

Hàng nông sản dù có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế nhưng vẫn chưa đủ để đưa thương hiệu nông sản Việt Nam ra thế giới. Để làm được điều đó, một yêu cầu đặt ra là Nhà nước phải gia tăng các biện pháp xúc tiến thương mại như xây dựng các hội chợ triển lãm, quảng bá, giới thiệu hàng nông sản Việt Nam trên các tạp chí, báo, ấn phẩm trong và ngoài nước.

2. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp:

- Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu:

Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản phải chủ động trong việc tiếp nhận thông tin, nhận thức đúng được vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu thông qua các phương tiện truyền thông như internet, truyền hình, báo, tạp chí… Có thể lấy những bài học quý báu, những mô hình tiên tiến trên thế giới như Starbucks và Kelloggs hay Trung Nguyên ở Việt Nam để làm tấm gương cho các doanh nghiệp. Mỹ không phải là nước trồng, sản xuất cà phê vậy mà thương hiệu Starbucks đã nổi tiếng toàn cầu. Rồi bài học từ Trung Nguyên đó là việc xây dựng thương hiệu phải làm từ gốc và mang đậm nét văn hóa Việt Nam.

- Đầu tư cho máy móc, trang thiết bị hiện đại kết hợp với áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến:

Doanh nghiệp cần đầu tư máy móc, trang thiết bị hiện đại, kết hợp với áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chế biến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, tăng thêm giá trị cho hàng nông sản.

- Đầu tư cho nghiên cứu thị trường nhằm tạo ra sản phẩm phù hợp:

Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nông sản mang thương hiệu Việt, nhưng muốn sản phẩm đó được người tiêu dùng nước ngoài chấp nhận và yêu thích thì phải phù hợp với thị hiếu của họ. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò của việc nghiên cứu thị trường. Sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn mang nặng tính cung ứng những sản phẩm mình có hơn là sản xuất ra sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu thị trường.

- Xây dựng các quy chuẩn cho sản phẩm nhằm bảo đảm về tính minh bạch của quy trình sản xuất:

Hàng nông sản nói riêng và hàng hóa nói chung muốn nhập khẩu vào các thị trường ngày càng khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản,… cần phải chứng minh rõ nguồn gốc, cơ sở sản xuất, quy trình chế biến,… Do đó, việc xây dựng các quy chuẩn cho sản phẩm đặc biệt là các sản phẩm đặc thù mang tính địa phương nhằm bảo đảm về tính minh bạch của quy trình sản xuất chính là giấy thông hành cần thiết cho hàng nông sản.

- Chủ động quảng bá thương hiệu nông sản của doanh nghiệp ra thị trường quốc tế:

Việc quảng bá thương hiệu nông sản của doanh nghiệp phải được tiến hành cả ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Ở trong nước, doanh nghiệp có thể kết hợp với các công ty du lịch tổ chức tour du lịch sinh thái nhằm giới thiệu nông sản Việt Nam đến du khách nước ngoài. Ở nước ngoài, doanh nghiệp phải chủ động tiếp cận thị trường thông qua các kênh phân phối như siêu thị, các khu chợ, cửa hàng bán lẻ. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể tổ chức các showroom về ẩm thực để giới thiệu đến người tiêu dùng nước ngoài về nông sản, ẩm thực và văn hóa của Việt Nam.

- Liên minh với thương hiệu có tên tuổi:

Với các thương hiệu mới khi xâm nhập bất cứ một thị trường nào cũng đều gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến việc người tiêu dùng không để ý, lựa chọn, chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp do sản phẩm không có tên tuổi, không có uy tín. Do đó, các thương hiệu mới có thể liên kết với các thương hiệu đã có tên tuổi nhằm tận dụng sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, kỹ thuật để thâm nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên thị trường thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. TS. Phạm Thị Lan Hương, Quản trị thương hiệu, Nhà xuất bản Tài chính, 2014.

2. PGS,TS. Vũ Chí Lộc, ThS. Lê Thị Thu Hà - “Xây dựng và phát triển thương

hiệu”, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2007.

3. Jack Trout - “Định vị thương hiệu”, Nhà xuất bản Thống kê, 2004.

4. Ronald J. Alsop- “18 quy luật bất biến phát triển danh tiếng thương hiệu”, Nhà xuất bản Trẻ, 2008.

SOLUTION FOR BUILDING TRADEMARK FOR

VIETNAMESE EXPORT AGRICULTURAL PRODUCTS

MA. LUU HUYNH

Faculty of Business Administration

- University of Economic and Technical Industries

ABSTRACT:

At present, the development of Vietnam's agricultural product brands is halting at the dismal level. Many localities and businesses do not really realize the role and significance of building and protecting the brand name of agricultural products, especially in the integration period. The article analyzes the situation and proposes solutions to build Vietnam's agricultural product brand in the coming time.

Keywords: Branding, brand building, export agricultural products, economics...

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 06 tháng 05/2017 tại đây