Hoàn thiện quy định pháp luật về chứng cứ điện tử trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam

Hoàn thiện quy định pháp luật về chứng cứ điện tử trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam do TS.GVC. Vũ Thế Hoài1,* - ThS. Huỳnh Minh Quân (Khoa Luật - Trường Đại học Sài Gòn) thực hiện

TÓM TẮT:

Thông điệp dữ liệu điện tử đã trở thành một nguồn chứng cứ quan trọng trong kỷ nguyên số, giúp các chủ thể tham gia tố tụng phát hiện, khai thác các thông tin nhằm chứng minh cho các sự kiện, tình tiết trong vụ việc dân sự. Bài viết này trình bày và phân tích những bất cập trong quy định của trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Giao dịch điện tử năm 2023 về điều kiện chấp nhận giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu điện tử và hoạt động thu thập chứng cứ điện tử. Từ đó, bài viết đưa ra các đề xuất hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đảm bảo cân bằng giữa hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia.

Từ khóa: chứng minh, chứng cứ điện tử, dữ liệu điện tử, tố tụng dân sự.

1. Đặt vấn đề

Sự phát triển của công nghệ số đã thay đổi cách thức trao đổi thông tin và giao dịch dân sự, khiến thông điệp dữ liệu điện tử trở thành "dấu vết" chứng minh cho ý chí và hành vi của các bên khi xảy ra tranh chấp. Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã bổ sung "dữ liệu điện tử" làm nguồn chứng cứ, nhưng các quy định về chứng cứ điện tử còn sơ khai và chưa rõ ràng, gây khó khăn trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng. Cùng với đó, trong bối cảnh Luật Giao dịch điện tử (LGDĐT) năm 2023 chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện, đảm bảo sự đồng bộ về thuật ngữ, phạm vi áp dụng và điều kiện chấp nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử là rất cần thiết.

2. Khái quát về chứng cứ điện tử trong tố tụng dân sự

2.1. Chứng cứ điện tử và nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử

Chứng cứ là phương tiện quan trọng giúp cơ quan tố tụng làm rõ nội dung và tình tiết vụ việc. Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, chứng cứ là những gì có thật do đương sự, tổ chức, cá nhân nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập, nhằm xác định các tình tiết khách quan và tính hợp pháp của yêu cầu, phản đối. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn như vật chứng, lời khai, tài liệu nghe, nhìn, đọc được, và dữ liệu điện tử... Tại Việt Nam, khái niệm riêng biệt về chứng cứ điện tử chưa được đề cập trong các văn bản quy phạm pháp luật. Ở khía cạnh nguồn chứng cứ, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung nguồn chứng cứ mới là "dữ liệu điện tử" (Điều 94). Như vậy, chứng cứ điện tử tồn tại trong nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. LGDĐT năm 2005 và 2023 cũng chỉ mới chỉ quy định về giá trị dùng làm chứng cứ của thông điệp dữ liệu1 chứ không đưa ra khái niệm cụ thể về chứng cứ điện tử.

Có thể thấy, chứng cứ điện tử có mối quan hệ chặt chẽ với dữ liệu điện tử. Hiện nay, việc phân biệt chứng cứ điện tử và nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử vẫn chưa được rõ ràng. Trong khoa học pháp lý, nguồn chứng cứ là hình thức tồn tại, chứa đựng chứng cứ2. Một nguồn chứng cứ có thể chứa đựng nhiều chứng cứ, được phát hiện và thu thập để chứng minh cho từng sự việc khác nhau trong vụ việc dân sự. Do vậy, không thể định nghĩa "chứng cứ điện tử là dữ liệu điện tử...". Để xác định chứng cứ điện tử được rút ra từ nguồn chứng cứ, BLTTDS năm 2015 đã tiếp tục sử dụng một thuật ngữ khác đó là "thông điệp dữ liệu điện tử". Có thể hiểu, thông điệp dữ liệu điện tử mới chính là chứng cứ điện tử. Theo đó, thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Tuy nhiên, tại thời điểm BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thì LGDĐT năm 2005 vẫn chưa quy định khái niệm dữ liệu điện tử hay thông điệp dữ liệu điện tử mà chỉ quy định về hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu (Điều 10). Quy định này gần như trùng lặp với quy định tại khoản 3 Điều 95 BLTTDS năm 2015 về nguồn chứng cứ. Đến LGDĐT năm 2023, bổ sung khái niệm dữ liệu điện tử là dữ liệu được tạo ra, xử lý, lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi, được nhận, được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.

Từ các quy định trên, có thể hiểu: Chứng cứ điện tử trong giải quyết tranh chấp dân sự là thông tin có thật, được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử và được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được nhằm chứng minh cho các yêu cầu của các chủ thể hay các đương sự khi giải quyết các yêu cầu, vụ việc theo trình tự tố tụng dân sự.

2.2. Đặc điểm của chứng cứ điện tử

Chứng cứ điện tử là loại chứng cứ dưới dạng dữ liệu điện tử, do đó nó bao gồm cả đặc điểm của chứng cứ như:

Thứ nhất, tính khách quan, hay còn gọi là tính xác thực, là yếu tố then chốt trong việc đánh giá giá trị của chứng cứ. Chứng cứ điện tử, như mọi dạng chứng cứ khác, phải phản ánh chân thực những thông tin, tài liệu, hay dữ liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án đang được xét xử.

Thứ hai, tính hợp pháp đảm bảo việc thu thập, sử dụng, bảo quản chứng cứ điện tử tuân thủ quy định. Chứng cứ điện tử chứa thông tin liên quan vụ án và dữ liệu riêng tư. Do đó, việc truy cập dữ liệu phải theo pháp luật và có sự cho phép của chủ sở hữu. Hành vi thu thập, sử dụng, bảo quản trái phép, xâm phạm quyền riêng tư, hoặc ảnh hưởng đến an ninh quốc gia sẽ bị xử lý nghiêm.

Thứ ba, tính liên quan là yếu tố phản ánh

mối quan hệ trực tiếp giữa chứng cứ điện tử và các tình tiết của vụ án. Không phải mọi thông tin, tài liệu, hay dữ liệu điện tử đều là chứng cứ. Chỉ những thông tin, tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án, góp phần làm sáng tỏ các tình tiết, mới được xem là chứng cứ.

Ngoài ra, cần lưu ý mối liên hệ giữa các chứng cứ điện tử với nhau trong cùng một vụ việc. Các chứng cứ có thể khác nhau về hình thức, nội dung, hay thời gian, nhưng đều phải liên quan đến cùng một sự kiện pháp lý, góp phần xác định sự thật của vụ án.

Vì chứng cứ điện tử là dạng chứng cứ dưới dạng dữ liệu điện tự nên sẽ có thêm các đặc điểm sau đây:

Một là, tính phi vật lý. Chứng cứ điện tử không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không thể tồn tại độc lập mà phải phụ thuộc vào phương tiện điện tử. Nếu thiếu thiết bị hoặc phần mềm phù hợp, dữ liệu điện tử có thể không có giá trị chứng cứ vì không thể hiển thị dưới định dạng đọc được.

Hai là, tính nguyên bản. Chứng cứ điện tử có thể được sao lưu, sao chép vô thời hạn với bản sao giống hệt bản gốc. Mặc dù là bản sao, nhưng vẫn có thể xem là chứng cứ bởi mang đầy đủ các đặc tính nguyên bản.

Ba là, tính toàn cầu. Trên nền tảng không gian mạng, dữ liệu điện tử có thể được lưu trữ bất cứ đâu trên thế giới và dễ dàng truyền tải mà không bị giới hạn địa lý. Một số quốc gia đã xem không gian mạng là vùng lãnh thổ và thực hiện chủ quyền quốc gia. Điều này tác động đến sự hợp tác quốc tế trong thu thập chứng cứ điện tử.

Bốn là, tính dễ bị can thiệp. Chứng cứ điện tử dễ bị thay đổi, cập nhật hoặc xóa, nhưng có thể phục hồi bằng các biện pháp kỹ thuật. Điểm khác biệt giữa chứng cứ điện tử và vật chất là chứng cứ điện tử để lại dấu vết khi thay đổi. Dữ liệu điện tử có thể bị can thiệp từ xa qua kết nối mạng, nhưng không thể phá hủy vật lý. Ngay cả khi bị xóa, dữ liệu vẫn có thể phục hồi, dù việc này tốn kém và phức tạp.

3. Bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự và luật giao dịch điện tử Việt Nam về chứng cứ điện tử

3.1. Sự thiếu thống nhất trong thuật ngữ liên quan đến chứng cứ điện tử về quy định nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử

Hiện nay, hệ thống pháp luật liên quan đến chứng cứ điện tử đang tồn tại những bất hợp lý đối với việc thống nhất thuật ngữ. Điều 94 BLTTDS năm 2015 quy định nguồn chứng cứ là “dữ liệu đọc được, hiểu được, ngửi được, dữ liệu điện tử...”, trong khi Điều 95 của bộ luật lại nói về nguồn chứng cứ “Thông điệp dữ liệu điện tử được thực hiện dưới hình thức truyền dữ liệu điện tử, văn bản điện tử, thư từ, email, điện báo, fax và các phương tiện tương đương khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử”. Tuy nhiên, LGDĐT năm 2023 cũng quy định rõ thông điệp dữ liệu (khoản 4 Điều 3) và dữ liệu điện tử (khoản 7 Điều 3), theo đó dữ liệu điện tử (là dữ liệu được tạo ra, truyền, lưu giữ bởi thiết bị điện tử) được coi là nguồn chứng cứ, còn chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, luật này chỉ quy định rõ thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được truyền, được nhận, được lưu trữ bởi phương tiện điện tử và được dùng làm chứng cứ theo quy định của LGDĐT và pháp luật về tố tụng hình sự. Sự phân biệt giữa việc áp dụng thuật ngữ về nguồn chứng cứ điện tử và chứng cứ điện tử đối với các văn bản pháp luật nói trên đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa hiểu và áp dụng pháp luật.

Thực tế, việc BLTTDS năm 2015 quy định dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ thì chưa chính xác. LGDĐT năm 2023 quy định rõ các khái niệm: Dữ liệu là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự khác; Dữ liệu điện tử là dữ liệu được tạo ra, xử lý, lưu trữ bằng phương tiện điện tử; Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi, được nhận, được lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Từ đây có thể hiểu, dữ liệu điện tử là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh đã được mã hóa. Như vậy, dữ liệu điện tử là một dạng thông tin chứ không phải nguồn thông tin3. Nguồn của chứng cứ điện tử cần được hiểu là phương tiện lưu giữ và truyền dữ liệu điện tử như máy tính, điện thoại, ổ cứng máy tính, các loại thẻ nhớ, đĩa, máy ghi hình, ghi âm, hay các thiết bị điện tử khác. Chính các phương tiện điện tử là nơi chứa đựng thông điệp dữ liệu điện tử - là các thông tin về tình tiết vụ việc dân sự. Quan điểm của Ủy ban Châu Âu cũng tương tự khi giải thích về chứng cứ điện tử. Theo đó: "Chứng cứ điện tử đề cập đến nhiều loại dữ liệu ở dạng điện tử... bao gồm "dữ liệu nội dung" như email, tin nhắn văn bản, ảnh và video - thường được lưu trữ trên máy chủ của các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến, cũng như các loại dữ liệu khác, chẳng hạn như dữ liệu thuê bao hoặc thông tin lưu lượng truy cập liên quan đến tài khoản trực tuyến..."4. Mặt khác, cũng cần xác định, thực chất chứng cứ điện tử là thông điệp dữ liệu điện tử chứ không phải là dữ liệu điện tử. Hiểu một cách đơn giản, “dữ liệu” thường ở dạng thô, khi được truyền và nhận trong môi trường điện tử thì người gửi và người nhận cũng không thể hiểu được nội dung của dữ liệu đó, trừ khi nó được xử lý dưới dạng thông tin. Trong khi dữ liệu có thể tồn tại riêng lẻ thì thông tin được lấy từ dữ liệu thông qua quá trình xử lý và ngữ cảnh hóa5. Tại khoản 3 Điều 95 BLTTDS năm 2015 cũng đã xác định chứng cứ là "thông điệp dữ liệu điện tử", tuy nhiên việc sử dụng thuật ngữ này lại không thống nhất với các thuật ngữ theo pháp luật giao dịch điện tử (chỉ quy định "dữ liệu điện tử" hoặc "thông điệp dữ liệu").

3.2. Về trình tự thủ tục, thu thập chứng cứ điện tử

Những tình tiết, sự kiện được coi là chứng cứ phải đáp ứng ba thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Theo đó, tính khách quan thể hiện ở chỗ chứng cứ là những gì có thật, tồn tại độc lập ngoài ý chí của con người; tính liên quan thể hiện mối quan hệ nhất định giữa chứng cứ và vụ việc dân sự; tính hợp pháp đòi hỏi chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Điều 95 BLTTDS năm 2015 đã quy định về xác định chứng cứ trong nguồn chứng cứ hay điều kiện để được coi là chứng cứ. Tuy nhiên có thể thấy quy định tại khoản 3 Điều 95 về thông điệp dữ liệu điện tử có sự khác biệt với các khoản còn lại. Cụ thể, đối với tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận (khoản 1 Điều 95); kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định (khoản 6 Điều 95). Nhưng đối với thông điệp dữ liệu điện tử (khoản 3) thì không có cụm từ “được coi là chứng cứ nếu...". Thực chất quy định tại khoản 3 là quy định về hình thức thể hiện của thông điệp dữ liệu điện tử chứ không phải điều kiện để thông điệp dữ liệu điện tử được chấp nhận giá trị chứng cứ. Bên cạnh đó, việc quy định "thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử" cũng chưa thật sự phù hợp. Vì như đã phân tích, dữ liệu điện tử khi chưa được xử lý, chuyển đổi để trở thành thông tin thì việc thu thập dữ liệu điện tử cũng không thể giải quyết các vấn đề cần chứng minh. Thay vào đó, quy định tại Điều 7 LGDĐT năm 2023 đã hoàn chỉnh và hợp lý hơn khi ghi nhận thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức văn bản điện tử, tài liệu điện tử, chứng thư điện tử, chứng từ điện tử, hợp đồng điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và hình thức trao đổi dữ liệu điện tử khác theo quy định của pháp luật.

Về hoạt động thu thập chứng cứ điện tử, để được công nhận và sử dụng trong tố tụng, thông điệp dữ liệu điện tử phải được thu thập theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Điều này có nghĩa hoạt động thu thập chứng cứ, đánh giá, sử dụng chứng cứ phải tuân thủ theo BLTTDS. Tuy vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành lại không quy định về trình tự, thủ tục hay biện pháp để thu thập chứng cứ điện tử.

Khác với pháp luật tố tụng hình sự quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh (trừ các trường hợp luật định) và Tòa án chỉ có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ (Điều 6 BLTTDS năm 2015). Theo điểm g khoản 2 Điều 97, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ một cách gián tiếp qua việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; hay theo khoản 6 Điều 97, Viện Kiểm sát nhân dân thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Từng chủ thể khác nhau có trách nhiệm hoặc nghĩa vụ chứng minh khác nhau để làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ việc dân sự. Hiện nay, trình độ và khả năng hiểu biết pháp luật của các đương sự không đồng đều, dẫn đến chênh lệch trong khả năng tranh tụng. Một số đương sự có năng lực cao, biết cách thu thập và nộp chứng cứ hiệu quả, trong khi những người khác gặp khó khăn, đặc biệt khi tài liệu nằm trong tay các cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân khác. Điều này khiến các đương sự phải nhờ Tòa án thu thập chứng cứ, gây khó khăn cho quá trình tranh tụng và tăng thêm khối lượng công việc cho Tòa án6. Đây là bất cập chung trong hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và đặc biệt với chứng cứ điện tử - không chỉ đòi hỏi sự hiểu biết của đương sự về pháp luật mà còn về khoa học công nghệ. Với hướng quy định của pháp luật hiện hành thì cơ quan tiến hành tố tụng không phải là chủ thể chính trong hoạt động thu thập chứng cứ. Về mặt công nghệ, việc thu thập chứng cứ điện tử không khó đối với các cá nhân am hiểu công nghệ, nhưng vướng mắc nằm ở khía cạnh pháp lý do quy định chưa cụ thể. Sau khi nộp chứng cứ điện tử, tòa án cần dựa trên các tiêu chí như độ tin cậy trong khởi tạo, gửi, nhận, lưu trữ dữ liệu; cách bảo đảm tính toàn vẹn và xác định người tạo ra dữ liệu. Tuy nhiên, các quy định này không được đề cập rõ ràng trong BLTTDS năm 2015, LGDĐT năm 2023 và vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể. Việc chứng minh người khởi tạo dữ liệu điện tử là thách thức lớn và hiện tại chưa cho phép sử dụng biện pháp điều tra hoặc pháp y kỹ thuật số trong lĩnh vực dân sự.

Việc thu thập chứng cứ điện tử gặp nhiều thách thức liên quan đến quyền riêng tư và tính dễ bị can thiệp của dữ liệu điện tử. Quá trình này đòi hỏi kỹ thuật chuyên môn cao và sự hợp tác giữa các cơ quan pháp lý và các bên liên quan. Việc thu thập CCĐT có nguy cơ xâm phạm quyền riêng tư của đương sự hoặc bên thứ ba, do dữ liệu điện tử không có ranh giới rõ ràng. Nếu chứng cứ liên quan đến quyền riêng tư hoặc bí mật nhà nước, tính toàn vẹn của chứng cứ có thể không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

4. Kiến nghị hoàn thiện quy định về chứng cứ điện tử trong giải quyết các tranh chấp dân sự

Thứ nhất, cần xây dựng khái niệm về chứng cứ điện tử một cách minh thị trong BLTTDS năm 2015. Để đảm bảo tính minh bạch của pháp luật, cần quy định một cách thống nhất về thuật ngữ đối với nguồn chứng cứ điện tử và chứng cứ điện tử giữa BLTTDS năm 2015 và LGDĐT năm 2023. Đồng thời, xuất phát từ các đặc điểm rất khác biệt của chứng cứ điện tử, pháp luật cần có quy định riêng về xác định điều kiện chấp nhận giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu điện tử.

Thứ hai, cần xây dựng bộ nguyên tắc về thu thập chứng cứ điện tử trong tố tụng dân sự, hoặc một bộ nguyên tắc thu thập chứng cứ điện tử thống nhất, phù hợp tất cả các lĩnh vực dân sự, hình sự và tất các chủ thể tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ điện tử phải đảm bảo trên cơ sở cân bằng giữa việc chứng minh trong tố tụng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức trong quá trình thu thập.

Thứ ba, bổ sung quy định về điều kiện chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ điện tử. Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh và cũng là chủ thể chính thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ điện tử. Dù vậy cần có quy định giới hạn những chủ thể có đủ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, công tâm, khách quan mới có quyền thực hiện thu thập chứng cứ điện tử; hoặc trong trường hợp cần thiết, đương sự phải trưng cầu người có kỹ năng, kiến thức, chuyên gia thực hiện thu thập chứng cứ điện tử. Hoạt động thu thập chứng cứ điện tử bởi chuyên gia cần được sự cho phép, giám sát của cơ quan tiến hành tố tụng trong suốt quá trình thực hiện.

Thứ tư, để xác định độ tin cậy và tính toàn vẹn của chứng cứ điện tử, pháp luật chuẩn hóa quy trình thu thập chứng cứ điện tử, công cụ, phương tiện sử dụng trong quá trình thu thập chứng cứ điện tử, phải là loại đã được cơ quan có thẩm quyền thẩm định đánh giá về độ tin cậy và tính khả thi của nó. Trong bối cảnh các công nghệ mới được phát minh và phát triển rất nhanh thì quy định về trình tự, thủ tục và kỹ thuật thu thập chứng cứ điện tử cũng cần được liên tục xem xét và cập nhật.

Thứ năm, liên quan đến quyền riêng tư trong hoạt động thu thập chứng cứ điện tử, pháp luật cần giải quyết được các vấn đề phân loại mức độ quyền riêng tư có trong chứng cứ điện tử, mức độ xâm hại đến quyền riêng tư cũng như xác định tính liên quan của chứng cứ điện tử. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra quyết định, lựa chọn các công cụ và biện pháp thu thập chứng cứ điện tử phù hợp.

5. Kết luận

Chứng cứ điện tử đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình giải quyết các tranh chấp tại tòa án, đặc biệt trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin. Việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định về chứng cứ điện tử điều cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp và độ tin cậy của loại chứng cứ này. Từ đó, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả tố tụng, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tư pháp, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng trong kỷ nguyên số hóa.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1Khoản 4 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử năm 2023: "Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi, được nhận, được lưu trữ bằng phương tiện điện tử".

2Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019). Giáo trình Luật Tố tụng dân sự. TP: Hồ Chí Minh: NXB. Hồng Đức, tr. 216.

3Trần Thu Hạnh và Mai Thanh Sơn (2023). Một số vấn đề về chứng cứ điện tử trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam - Định hướng hoàn thiện từ kinh nghiệm quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Xu thế phát triển của pháp luật Việt Nam về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự. Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 248.

4"Electronic evidence refers to various types of data in electronic form that are relevant in investigating and prosecuting criminal offences - including 'content data' such as e-mails, text messages, photographs and videos - often stored on the servers of online service providers, as well as other categories of data, such as subscriber data or traffic information regarding an online account". (Xem: European Commision (2019). Questions and Answers: Mandate for the EU-U.S. cooperation on electronic evidence. [Online] Available at https://ec.europa.eu/ commission/presscorner/detail/en/memo_19_863).

5Chen, M., Ebert, D., Hagen, H., Laramee, R. S., Van Liere, R., Ma, K., Ribarsky, W., Scheuermann, G., & Silver, D. (2009). Data, information, and knowledge in visualization. IEEE Computer Graphics and Applications, 29(1), p.13.

6Tòa án Nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2023). Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (từ 01/7/2016 đến 31/7/2023). TP. Hồ Chí Minh, tr. 6-7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đinh Thị Ngọc Hà (2023). Chứng cứ điện tử trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới. Truy cập tại https://danchuphapluat.vn/chung-cu-dien-tu-trong-to-tung-dan-su-theo-phap-luat-viet-nam-va-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi

2. Nguyễn Thành Minh Chánh (2021). Pháp luật về chứng cứ điện tử trong tố tụng dân sự Việt Nam. Truy cập tại https://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210996/Phap-luat-ve-chung-cu-dien-tu-trong-to-tung-dan-su-Viet-Nam.html

3. Nguyễn Thị Thúy Hằng và Nguyễn Ngọc Lan Anh (2023). Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong tố tụng dân sự. Truy cập tại https://danchuphapluat.vn/nguon-cua-chung-cu-dien-tu-trong-to-tung-dan-su

4. Quốc hội (2005). Luật số 51/2005/QH11: Luật Giao dịch điện tử.

5. Quốc hội (2015). Luật số 92/2015/QH13: Bộ luật Tố tụng dân sự.

6. Quốc hội (2023). Luật số 20/2023/QH15: Luật Giao dịch điện tử.

7. Obama, B., (2011). Internationl strategy for cyberspace. The White House, USA.

IMPROVING LEGAL PROVISIONS ON ELECTRONIC

EVIDENCE IN RESOLVING CIVIL DISPUTES IN VIETNAM

• Ph.D VU THE HOAI1

• Master. HUYNH MINH QUAN1

1Faculty of Law, Saigon University

ABSTRACT:

Electronic data messages have become an essential source of evidence in the digital age, assisting litigants in detecting and exploiting information to prove facts and circumstances in civil cases. By reviewing and evaluating the current regulations on electronic evidence in the Civil Procedure Code 2015 and the Law on Electronic Transactions 2023, this paper analyzed and presented the inadequacies in legal provisions regarding the conditions for accepting the evidential value of electronic data messages and the process of collecting electronic evidence. Based on the paper’s findings, some recommendations were made to establish a comprehensive legal framework that ensures a balance between the proving activities in civil litigation and the protection of the legitimate rights and interests of involved parties.

Keywords: evidence, electronic evidence, electronic data, civil proceedings.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 19 tháng 9 năm 2024]

Tạp chí Công Thương