Kinh nghiệm triển khai bảo hiểm vi mô tại Philippine, Nhật Bản và bài học đối với Việt Nam

ThS. ĐỖ THỊ DIÊN (Trường Đại học Thương mại)

TÓM TẮT:

Dịch vụ bảo hiểm vi mô (BHVM) là một trong những dịch vụ tài chính vi mô (TCVM) được cung cấp cho những người có thu nhập thấp nhằm đảm bảo cho họ có cuộc sống bình thường hoặc ít xáo trộn khi có những rủi ro, bất trắc xảy ra. Đây một lĩnh vực khá mới mẻ, ở Việt Nam hiện nay có khoảng 10 nhà cung cấp dịch vụ BHVM. Các nhà cung cấp tập trung chủ yếu vào các tổ chức phi chính phủ. Có tới 97,3% số người có thu nhập thấp chưa tiếp cận được với dịch vụ này song nó đã và đang góp phần đáng kể cho công cuộc xóa đói giảm nghèo thông qua việc cung cấp dịch vụ bảo vệ cho người nghèo không thể tham gia bảo hiểm xã hội của Nhà nước.

Bài viết này đề cập đến việc triển khai dịch vụ BHVM tại các nước đã thực hiện thành công như Philipin, Nhật Bản,… từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc cung cấp dịch vụ này tại Việt Nam.

Từ khóa: Bảo hiểm vi mô, tài chính vi mô, kinh nghiêm: Philippin, Nhật Bản,Việt Nam.

1. Kinh nghiệm triển khai dịch vụ BHVMtại Philippine

Philippine là một trong những nước đang triển khai thành công dịch vụ TCVMvà BHVM, hỗ trợ đắc lực cho chính sách giảm nghèo và phát triển bền vững. BHVMtại nước này chủ yếu được thực hiện thông qua các hội tương hỗ và các tổ chức phi lợi nhuận. Mục tiêu hoạt động của các hội tương hỗ này là:

- Chi trả quyền lợi cho tử vong, tai nạn, sức khỏe của các thành viên của hội, người thân và người phụ thuộc của họ;

- Trợ giúp tài chính trong trường hợp thành viên bị mất việc làm;

- Thực hiện bảo hiểm cho các thành viên với phí bảo hiểm thấp: không quá 10% của mức thu nhập tối thiểu/ngày (bằng 1 Đô la Mỹ). Số tiền bảo hiểm tối đa là: 4.200 Đô la Mỹ (khoảng 68 triệu đồng).

Các yêu cầu đối với hoạt động của các hội tương hỗ này là:

- Điều khoản phải thật dễ hiểu;

- Yêu cầu thủ tục, hồ sơ thật đơn giản để yêu cầu bồi thường được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng;

- Định kỳ đóng phí trùng với dòng thu nhập của người đóng phí;

- Số thành viên tham gia của hội: ít nhất là 5.000 người.

Mô hình phân phối BHVMtập trung vào hai mô hình: (1) mô hình Đối tác-đại lý (Partner-agent), Các tổ chức hội kí hợp đồng đối tác, đại lý với một doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp dịch vụ, hợp đồng bảo hiểm cho các thành viên của hội; (2) mô hình hội tương hỗ (Mutual), theo mô hình này hội trực tiếp đứng ra cung cấp dịch vụ và thực hiện bảo hiểm cho các thành viên của mình.

Để các hội tương hỗ này hoạt động thành công, cơ quan quản lý nhà nước của Philippine thực hiện việc quản lý và giám sát các mặt như: khả năng thanh toán (giám sát hoạt động đầu tư, dự phòng), hiệu quả hoạt động, quản lý hoạt động và truyền thông của các hội.

Hội tương hỗ CARD (Centre for Agricuture & Rural Development Mutual Benefit Association) tại Philippine là ví dụ điển hình cho sự thành công của việc triển khai bảo hiểm vi mô: Năm 1994, Quỹ tương hỗ (MMF) được thành lập, cung cấp bảo hiểm cho khách hàng có các khoản vay. Đến năm 1997, cung cấp hình thức đóng phí tháng với mức đóng 300 Pê sô/tháng và mức phí P400 áp dụng cho các thành viên ngoài 65 tuổi. Năm 1999 - Hội tương hỗ CARD được Cục Quản lý bảo hiểm Philippine cấp giấy phép hoạt động. Kể từ khi thành lập, Hội tương hỗ CARD phát triển mạnh mẽ nhờ vào các nhân tố thúc đẩy như:

- Hội có số thành viên lớn với 154.251 thành viên là các hộ gia đình bắt buộc tham gia bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm hưu trí, do đó giúp chống lại được sự lựa chọn đối nghịch (anti-selection);

- Đưa ra mức đóng góp phù hợp với thu nhập của hội viên. Hiện nay, mức đóng góp mỗi tuần là 5 Peso đối với bảo hiểm nhân thọ và 5 Peso cho bảo hiểm hưu trí;

- Sử dụng mạng lưới thu phí bảo hiểm có sẵn với 157 chi nhánh và 5 trụ sở chính. Sự hiện diện của mạng lưới CARD tạo thuận lợi cho việc thu phí bảo hiểm;

- Chi phí quản lý thấp: 2% tổng phí bảo hiểm được dùng cho việc thu phí; 20% tổng phí bảo hiểm được dành cho chi phí hoạt động chung - GAE (General Administration Expense) nhưng mức sử dụng thực tế chỉ là 18%;

- Với tư cách là thực thể riêng biệt thực hiện bảo hiểm, do vậy có thể tập trung vào hoạt động bảo hiểm; duy trì quan hệ kinh doanh/nghiệp vụ trong nội bộ CARD;

- Thực hiện chiến dịch truyền thông hiệu quả. Hệ thống mạng lưới rộng của CARD làm đơn giản hóa việc truyền thông và nâng cao hiệu quả truyền thông;

- Xây dựng được một hệ thống bồi thường hiệu quả với số ngày giải quyết là 1 ngày, 3 ngày hoặc 5 ngày, qua đó làm cho sự hỗ trợ tài chính được thực hiện nhanh chóng;

- Thực hiện quản lý chuyên nghiệp. Hội có thể yêu cầu sự trợ giúp từ các chuyên gia, những người tình nguyện tận tâm;

CARD nhận được rất nhiều hỗ trợ của cơ quan nhà nước và các nhà tài trợ. Với sự trợ giúp của các định phí viên, Hội tương hỗ CARD đã thực hiện đóng gói lại các sản phẩm, thực hiện phát triển các sản phẩm mới và cung cấp các dịch vụ phi tài chính, đó là:

- Chương trình bảo hiểm nhân thọ: Chương trình bảo hiểm nhân thọ trọn đời kết hợp với thương tật toàn bộ vĩnh viễn và sản phẩm bổ trợ chết do tai nạn;

- Quỹ hưu trí: Bảo hiểm hỗn hợp đến 65 tuổi;

- Gói bảo hiểm cho tất cả các loại vay: Bảo hiểm tử kỳ nhóm tái tục hàng năm. Sản phẩm này thanh toán toàn bộ dư nợ vay, bao gồm khoản vay gốc cộng lãi vay;

- Bảo hiểm sức khỏe thông qua việc hợp tác với công ty bảo hiểm sức khỏe Phi-lip-pin (PhilHealth);

- Hoàn phí bảo hiểm: Giá trị hoàn lại được thanh toán cho các thành viên sau 3 năm liên tục;

- Các dịch vụ phi tài chính bao gồm: Các chương trình ngoại khóa cho thanh niên và đám cưới tập thể;

- Thực hiện theo dõi lịch sử của các thành viên thông qua công cụ đánh giá bồi thường, đánh giá rủi ro và chấp nhận bảo hiểm (MunCET).

Tính đến ngày 31/12/2015, Hội tương hỗ CARD đã có 687.469 thành viên, tổng tài sản quản lý lên đến 670 triệu Peso (tương đương 16,5 triệu đô la Mỹ). Số tiền bồi thường trong năm 2015 là 45 triệu Peso (tương đương 1,1 triệu đô la Mỹ).

Sản phẩm điển hình thành công của CARD là sản phẩm bảo vệ cho gia đình quy mô nhỏ (MICRO Family Protector):MICRO Family Protector là một sản phẩm bảo hiểm cho gia đình vay tài chính vi mô, được thiết kế để cung cấp sự bảo vệ tài chính kịp thời nếu bất kỳ thành viên nào của gia đình chết và sự tổn thất tài chính do hỏa hoạn.

Đặc điểm của chương trình bảo vệ cho gia đình ở quy mô nhỏ:

- Bảo hiểm tử kỳ, tái tục hàng năm hoặc có thời hạn bảo hiểm gắn với thời gian trả nợ vay. Chương trình chấm dứt khi phí bảo hiểm không được thanh toán sau thời gian gia hạn đóng phí.

- Đóng phí bảo hiểm hàng tuần, thời gian gia hạn đóng phí là 30 ngày.

- Người được bảo hiểm: Tuổi từ 18 đến 63, có sức khỏe tốt và có nguồn thu nhập, không cần kiểm tra sức khỏe khi tham gia.

- Các rủi ro được bảo hiểm và các mức trách nhiệm được cụ thể như sau:

Hoạt động của Hội tương hỗ CARD cho thấy:

- BHVM là hình thức bảo vệ rủi ro tốt cho người nghèo;

- Bảo vệ trước những rủi ro cần được xem là một thành tố hiệu quả của chiến lược giảm nghèo;

- Những người nghèo có tư tưởng dám nghĩ, dám làm sẵn sàng tham gia vào chương trình bảo hiểm vi mô;

- Các hội tương hỗ có thể sử dụng lợi thế của mạng lưới xã hội về TCVM và hệ thống thanh toán trong cung cấp dịch vụ bảo hiểm vi mô;

- Thách thức chủ yếu đối với cơ quan quản lý là việc giám sát chặt chẽ hoạt động nhằm đảm bảo sự hoạt động bền vững và hiệu quả của các hội tương hỗ bảo hiểm vi mô.

2. Kinh nghiệm triển khai dịch vụ Bảo hiểm nông nghiệp ở Nhật Bản

Dịch vụ Bảo hiểm nông nghiệp của Nhật Bản bắt đầu từ bảo hiểm cho chăn nuôi ra đời vào năm 1929. Sau đó, hệ thống này đã ngày càng phát triển sang cả các lĩnh vực khác để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nông dân và nâng cao hiệu quả của hệ thống bảo hiểm. Hiện nay, hệ thống giữ vai trò trọng tâm và là công cụ hỗ trợ của Chính phủ cho các thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp do thiên tai gây ra (Yoshii,1999).

Các đặc điểm chính của hệ thống bảo hiểm là: (1) Chính phủ Trung ương tái bảo hiểm cho các chương trình; (2) Về nguyên tắc, thực hiện 3 loại chương trình bảo hiểmgạo, lúa mỳ và lúa mạch; nuôi tằm; và bảo hiểm cho chăn nuôi là bắt buộc; (3) Chính quyền trung ương trợ cấp phần tiền đóng bảo hiểm cho nông dân; (4) Chính quyền trung ương trợ cấp cho những người bảo hiểm một phần chi phí quản lý hành chính.

Điểm đáng chú ý là Bảo hiểm nông nghiệp ở Nhật Bản được xây dựng trên cơ sở hoạt động mang tính tập thể của nông dân ở địa phương để thiết lập các quỹ dự phòng chung bằng việc tích lũy tiền đóng bảo hiểm.

Hệ thống bảo hiểm này được cấu trúc theo 3 cấp (hình dưới): Cấp nhà nước; cấp quận và cấp làng xã. Cơ sở cho cấu trúc này là các rủi ro có thể xảy ra trên phạm vi cả nước do thiên tai thường gây ra thiệt hại trải dài trên một vùng rộng lớn.

AMRA là một tổ chức độc lập, tự chủ, được thành lập ở mỗi làng xã và thành viên của nó là tất cả nông dân ở địa phương. AMRA chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống ở cấp chính quyền thấp nhất, đặc biệt trong các hợp đồng tương trợ, trong việc thu tiền bảo hiểm, ước tính thiệt hại để bồi thường, cung cấp sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho nông dân để ngăn ngừa, phòng chống thiệt hại. Các thành viên đóng tiền bảo hiểm cho AMRA và trong trường hợp thích hợp họ có thể nhận được các khoản tiền bồi thường từ AMRA. PFAMRA được thành lập để quản lý việc thực hiện bảo hiểm ở cấp quận. PFAMRA nhận tái bảo hiểm từ các AMRA và chia sẻ một phần trách nhiệm bảo hiểm của các AMRA. PFAMRA trả tiền tái bải hiểm và chuyển một phần trách nhiệm tái bảo hiểm của nó cho ARSA. Hơn nữa, PFAMRA cung cấp các hướng dẫn để kiểm soát sâu bệnh, dịch bệnh và đánh giá thiệt hại. ARSA thực hiện tái bảo hiểm một phần trách nhiệm tái bảo hiểm của AFAMRA và trả các khoản bồi thường tái-tái bảo hiểm cho PFAMRA khi thiệt hại bất thường xảy ra ở mức độ nhất định. Khi hợp đồng giữa thành viên và AMRA được ký kết các mối quan hệ này tự động hình thành.

Các sản phẩm được bảo hiểm: Hệ thống này bảo hiểm tất cả các sản phẩm nông nghiệp Lúa gạo (cả lúa nương và lúa nước), lúa mạch, lúa mỳ; Quả: cam, quýt, các quả họ cam quýt; táo, dứa, hạt dẻ, nho, lê, đào, hồng, mận, sơn trà, anh đào, khoai tây, đậu đỗ, đậu đỏ adzuki, đậu lửa, củ cải đường, cây mía, cây hoa bia, cây chè và các công trình phục vụ trồng trọt như vật liệu, nhà kính. Các chương trình Bảo hiểm lúa gạo (1), lúa mỳ và lúa mạch (2), Bảo hiểm nuôi tằm, Bảo hiểm chăn nuôi (3) được thực hiện ở cấp quốc gia do các sản phẩm bảo hiểm được sản xuất trên phạm vi cả nước, trong khi các sản phẩm khác chỉ được trồng ở những vùng nhất định.

Về nguyên tắc, việc tham gia vào chương trình 1, 2 và 3 là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả nông dân có quy mô sản xuất xác định. Lý do là (1) để ngăn ngừa sự lựa chọn ngược lại, (2) để làm cho các chương trình có thể tồn tại và đứng vững và (3) do phương thức sản xuất các sản phẩm này trên cả nước là tương tự nhau. Tuy nhiên, không có hình thức xử phạt trực tiếp đối với những người không tham gia các chương trình bảo hiểm này. Đối với các chương trình bảo hiểm khác, việc tham gia là tự nguyện bởi ở mỗi vùng có các cách sản xuất khác nhau.

Quản lý hành chính hệ thống bảo hiểm nông nghiệp ở mỗi chương trình một khác. Các nội dung chính là hợp đồng bảo hiểm (bao gồm: Sự tham gia, các tai nạn, thời kỳ, mức độ có thể bảo hiểm và tiền bảo hiểm) và sự đánh giá thiệt hại (bao gồm sự xác nhận thiệt hại, sự điều chỉnh thiệt hại ở các mức độ khác nhau và thanh toán các khoản bồi thường).

Điểm quan trọng nhất là Chính phủ trợ cấp rất nhiều cho hệ thống bảo hiểm này và chủ yếu là trợ cấp tiền đóng bảo hiểm cho những người có hợp đồng bảo hiểm và trợ cấp cho các khoản chi phí văn phòng của các tổ chức bảo hiểm (AMRA) và tái bảo hiểm (PFAMRA). Tỷ lệ trợ cấp cho tiền đóng bảo hiểm của hầu hết các chương trình bảo hiểm là khoảng 50%.

Tỷ lệ tham gia bảo hiểm ở các chương trình là khác nhau (tỷ lệ phần diện tích được bảo hiểm so với tổng diện tích canh tác của cây trồng có thể bảo hiểm, hoặc tỷ lệ giữa tổng số đầu gia súc được bảo hiểm so với tổng số đầu gia súc đang chăn nuôi). Các chương trình 1,2 và 3 tỷ lệ này rất cao gần 90% (trừ lợn). Ngược lại, tỷ lệ bảo hiểm cho lợn và các chương trình 4,5 và 6 (trên cơ sở tự nguyện) ở mức thấp, từ 14 đến 50%.

Nhìn chung, hệ thống BHNN Nhật Bản đã hoạt động tương đối tốt, đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng làm nông nghiệp với cấu trúc thuần nhất và đạt được các mục tiêu đề ra. Hệ thống này cũng được đánh giá là tương đối thành công trên khía cạnh phát triển bền vững và cấu trúc họat động phù hợp của hệ thống. Các nhân tố giải thích cho sự thành công này là: Có sự cân bằng giữa sự lãnh đạo của chính quyền với sự tham gia của những người nông dân mang tính tự nguyện, cơ sở hạ tầng xã hội được tổ chức tốt và có sự hỗ trợ thường xuyên của chính quyền trung ương về mặt tài chính (Kada và Shigeno, 1991). Tuy nhiên, dường như hệ thống bảo hiểm này đang phải đối mặt với một số vấn đề, trong đó nổi bật là sự không thỏa mãn về hệ thống của những người nông dân có quy mô sản xuất nhỏ, hoạt động nông nghiệp chỉ chiếm một phần thời gian lao động, sản xuất nông nghiệp của họ chủ yếu là trồng lúa gạo và nguồn thu nhập chính từ phi nông nghiệp. Bởi vậy, họ cảm thấy bị miễn cưỡng khi tham gia và đóng bảo hiểm cho chương trình bảo hiểm lúa gạo. Còn những người có quy mô sản xuất lớn, thường là những người có kỹ năng sản xuất tốt, bởi vậy họ nghĩ rằng họ phải đóng tiền bảo hiểm cao hơn và nhận được khoản bồi thường ít hơn so với những nông dân có quy mô sản xuất nhỏ.

3. Kinh nghiệm triển khai BHVM đối với Việt Nam

Ngoài Nhật Bản, Philippine, một số quốc gia khác như Indonesia, Urganda, Ấn Độ,… cũng triển khai BHVMvà rất thành công. Công thức chung cho sự thành công của họ - Việt Nam có thể áp dụng trong quá trình triển khai dịch vụ BHVM - tập trung vào những yếu tố như:

- Chính phủ giữ vai trò điều tiết hợp lý, có các quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của BHVM. Trong giai đoạn đầu triển khai BHVM, chính phủ các nước đã đưa ra những chính sách hỗ trợ như miễn giảm thuế đối với một số sản phẩm, thiết lập mô hình pháp lý và quan trọng nhất là việc thừa nhận BHVMlà một phần của thị trường bảo hiểm nhưng cũng là một công cụ hữu hiệu trong hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo của quốc gia.

- Phát triển các sản phẩm vi mô hợp lý là cơ sở cho sự thành công của BHVM. Hầu hết các nước đạt được thành công trong việc triển khai BHVMđều có điểm chung là các sản phẩm BHVMđược phát triển hết sức đơn giản, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm bảo hiểm tai nạn, thương tật; bảo hiểm cho các khoản vay tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp. Trong giai đoạn đầu, các nhà cung cấp dịch vụ tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm tai nạn con người do tính chất đơn giản và dễ quản lý của sản phẩm, dần dần các sản phẩm bảo hiểm chi phí y tế, bảo hiểm tài sản được phát triển nhưng theo hướng xác định số tiền bảo hiểm thấp, áp dụng nguyên tắc trả tiền khoán để đơn giản hóa quá trình quản lý sản phẩm và chi phí.

- Kênh phân phối bảo hiểm là nhân tố quyết định sự thành công của việc phát triển dịch vụ BHVM. Rõ ràng có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm tại các nước muốn tham gia bảo thị trường BHVM nhưng rất nhiều trong số họ chùng bước trước thực tế là khó tiếp cận khách hàng, phí bảo hiểm thấp, khách hàng không có thói quen và điều kiện tài chính đầy đủ như các phân khúc khách hàng thông thường. Tại các nước như Inddonesisia, Ấn Độ, Philippine kênh phân phối hiệu quả vẫn chủ yếu tập chung vào mô hình Đối tác - Đại lý hoặc hội tương hỗ cung cấp sản phẩm, đồng thời có sự hỗ trợ của phía Chính phủ trong việc nhận tái bảo hiểm đối với những sản phẩm bảo hiểm mang tính chất tích tụ rủi ro. Đối tác của các nhà cung cấp dịch vụ tập trung vào các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tín dụng, các hội đoàn thể - những tổ chức có thể dễ dàng tiếp cận và thường xuyên trao đổi với khách hàng của BHVM.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1.Craig Churchill & Michal Matul (2012), Bảo vệ người nghèo: Tổng hợp bảo hiểm vi mô tập II (Protecting the poor: A Microinsurance Compendium Volume II), Công ty Tái Bảo hiểm Munich Re và ILO, ILO, Đức;

2. Craig Churchill (2007), Bảo vệ người nghèo: Tổng hợp bảo hiểm vi mô (Protecting the poor: A microinsurance compendium), Munich Re and ILO, ILO, Germany;

3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), Quyết định số 749/QĐ-LĐTBXH ngày 13/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố về số hộ nghèo, hộ cận nghèo của Việt Nam năm 2012, bản phụ lục;

4. Jim Roth, Micheal J.McCord và Dominic Liber (2007), Toàn cảnh bảo hiểm vi mô tại 100 nước nghèo nhất thế giới (The Landscape of Microinsurance in the Worlds 100 Poorest Countries), Trung tâm Bảo hiểm vi mô, LLC, trang 1.

EXPERIENCES IN IMPLEMENTING MICROINSURANCE

IN PHILIPPINES, JAPAN AND LESSONS FOR VIETNAM

MA. DO THI DIEN

University of Commerce

ABSTRACT:

Micro insurance is one of the microfinance services offered low-income people to ensure they have a normal life or less disturbance when there are risks, or, incidents occur. This is a relatively new field, in Vietnam today there are about 10 providers of insurance services. Suppliers focus primarily on non-governmental organizations. Up to 97.3% of low income people do not have access to this service, but it has contributed significantly to poverty reduction by providing protection services for the poor who can not participate in social State's insurance.

This article refers to the successful implementation of insurance services in countrie such as the Philippines, Japan, etc., from which the article draws lessons for Vietnam.

Keywords: Microinsurance, microfinance, experience. Philippines, Japan, Vietnam.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 06 tháng 05/2017 tại đây