Một số kỹ năng giám sát hiệu quả việc chấp hành ngân sách nhà nước

TS. BÙI THỊ QUỲNH THƠ (Trưởng phòng Quản lý khoa học - Trường Đại học Hà Tĩnh)

TÓM TẮT:

Trong bối cảnh nền tài chính quốc gia hướng tới mục tiêu phát triển một nền quản trị công hiện đại, công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình và sự tham gia của cộng đồng vào chu trình ngân sách, việc giám sát các khoản thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) một cách chặt chẽ, bài bản, với hiệu lực và hiệu quả cao ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi bội chi NSNN đang có xu hướng tăng cao, nợ công đã chạm ngưỡng an toàn, nợ Chính phủ vượt trần mức cho phép. Bài viết sau đây sẽ đề cập đến giám sát việc chấp hành NSNN, thông qua đó, gợi ý và khuyến nghị một số kỹ năng giám sát hiệu quả đối với việc thực hiện dự toán NSNN.

Từ khóa: Giám sát, ngân sách nhà nước, bội chi, nợ Chính phủ, quản trị công.

Giám sát Ngân sách nhà nước là việc theo dõi, xem xét, đánh giá các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tài chính - ngân sách trong toàn bộ các khâu của quy trình ngân sách, bao gồm: Chuẩn bị/xây dựng dự toán, tổ chức thực hiện dự toán và quyết toán NSNN nhằm đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật về NSNN, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.

1. Kỹ năng giám sát việc chấp hành ngân sách nhà nước đối với các đoàn giám sát

Giám sát chấp hành NSNN nhằm mục đích: (i) Kiểm tra tính chấp hành dự toán NSNN đã được cấp có thẩm quyền thông qua; (ii) Ghi nhận kết quả đạt được tính đến thời điểm giám sát, khả năng hoàn thành dự toán; (iii) Nắm bắt những vấn đề phát sinh, vướng mắc trong quá trình thực hiện; (iv) Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thành dự toán, rút kinh nghiệm cho công tác xây dựng dự toán năm sau.

So với yêu cầu và mong muốn thì hoạt động giám sát trong lĩnh vực tài chính, ngân sách còn một số hạn chế. Đối với việc tổ chức Đoàn giám sát, có thể thấy phương thức giám sát chưa phù hợp. Giám sát hiện mới chủ yếu dựa vào báo cáo và ý kiến của cơ quan chịu giám sát (các bộ, ngành, địa phương). Việc đi thực tế phần lớn là nghe đối tượng giám sát báo cáo, ít có điều kiện trực tiếp làm việc với các tổ chức, cá nhân chịu tác động của chính sách. Các thành viên Đoàn giám sát trong một số trường hợp không đủ thông tin và thời gian để phản biện, trao đổi. Nội dung giám sát còn hạn chế, chưa đủ điều kiện để đi sâu, phát hiện và đề xuất giải quyết kịp thời những vấn đề thật cụ thể, bức xúc. Phạm vi giám sát còn hẹp, chưa bao quát toàn diện các lĩnh vực tài chính, ngân sách, các đơn vị sử dụng NSNN và hoạt động tài chính của các cơ quan, đơn vị. Một số kiến nghị của Đoàn giám sát còn chung chung. Có những kiến nghị chưa chỉ rõ quy định nào cần sửa đổi, bổ sung; cơ quan, tổ chức, cá nhân nào phải chịu trách nhiệm. Các Đoàn giám sát của các cơ quan Quốc hội về địa phương còn nhiều, có khi tập trung vào một số địa phương trong cùng thời gian...

1.1. Một số kỹ năng chung trong việc giám sát thực hiện dự toán thu, chi ngân sách nhà nước

- Cần nghiên cứu kỹ Báo cáo việc thực hiện NSNN của đối tượng chịu sự giám sát. Đối chiếu với dự toán NSNN đã được cấp có thẩm quyền thông qua;

- Đối chiếu kết quả thực hiện của cả nước, bộ, ngành, địa phương chịu sự giám sát dự toán NSNN; so sánh với kết quả đạt được của cùng kỳ năm ngoái để có thể thấy được khả năng hoàn thành dự toán, mức độ tiến bộ trong công tác quản lý NSNN;

- Tìm hiểu về các vướng mắc, nguyên nhân của các tồn tại dẫn đến việc khó hoàn thành được dự toán để có đánh giá phù hợp về khả năng thực hiện dự toán và đưa ra các giải pháp tháo gỡ;

- Đối chiếu kết quả thực hiện dự toán của đối tượng chịu sự giám sát so với tình hình thực hiện chung của cả nước, của khối... để cho thấy tương quan so với mức trung bình chung.

1.2. Áp dụng kỹ năng giám sát việc tổ chức thu, chi ngân sách nhà nước

Giám sát việc tổ chức thu, chi NSNN ngoài các nội dung, kỹ năng chung, được thực hiện trên ba bước cơ bản: Nghiên cứu tài liệu, phát hiện vấn đề thực hiện dự toán thu, chi NSNN và đặt câu hỏi đối với việc thực hiện dự toán thu, chi NSNN. Để việc giám sát đi đúng hướng và hiệu quả cần phải trả lời được các câu hỏi:

+ Tại sao vấn đề này lại được lựa chọn?

+ Vấn đề đó tác động đến địa phương như thế nào?

+ Ai sẽ là người bị ảnh hưởng bởi vấn đề đó và mức độ ảnh hưởng ra sao?

+ Vấn đề đó tồn tại từ khi nào? Có thể giải quyết được không? Có nguồn lực để giải quyết không? Nếu vấn đề không được giải quyết sẽ dẫn đến hậu quả gì?

2. Kỹ năng giám sát chấp hành ngân sách nhà nước tại các phiên họp về tài chính - ngân sách của Quốc hội

Bên cạnh các đoàn giám sát định kì hoặc đột xuất giám sát tại các địa phương, cơ sở thì tại các phiên họp về tài chính ngân sách của Quốc hội cũng phải thực hiện việc giám sát chấp hành ngân sách trên các giác độ: (i) Giám sát chung về chấp hành ngân sách, theo đó người giám sát cần tập trung đánh giá tác động của các chính sách tài khóa, các chính sách mới ban hành trong năm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; những nỗ lực của Chính phủ, các ngành, các cấp trong công tác chỉ đạo điều hành kinh tế - xã hội, điều hành thu, chi NSNN; tác động của nền kinh tế thế giới đến tình hình kinh tế trong nước; (ii) Giám sát phân bổ và giao dự toán ngân sách, cần căn cứ vào quy trình và thời hạn được quy định trong Luật NSNN năm 2015 và cụ thể hóa trong Quy chế lập, thẩm tra, quyết định dự toán NSNN, phương án phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN quy định; (iii) Giám sát các chính sách mới ban hành trong năm tài khóa, người giám sát cần lưu ý đến việc các chính sách làm tăng thu hoặc giảm thu ngân sách để có kiến nghị, đề xuất chấn chỉnh kịp thời; (iv) Giám sát việc thực hiện dự toán chi NSNN, trong đó cần đánh giá các vấn đề chính liên quan đến chi ngân sách như việc tuân thủ dự toán được giao, cân đối NSNN, quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, chi xây dựng cơ bản, chi thường xuyên.

Ví dụ: Dự toán chi NSNN năm 2017 là 1.390.480 tỷ đồng, tăng 117.280 tỷ đồng so với dự toán năm 2015. Trong số này, dự toán chi thường xuyên là 823.995 tỷ đồng, cao gấp 3,23% chi đầu tư phát triển (254.950 tỷ đồng). Chi thường xuyên gồm: chi tiền lương, tiền công, chi vật tư văn phòng, chi công tác phí, chi mua sắm tài sản, trang thiết bị,... Năm 2016 chi thường xuyên tăng lên mức kỷ lục so với các năm trước và chiếm tới 68% - 70% khiến cho những khoản chi quan trọng khác bị thu hẹp lại.

Nguyên nhân quan trọng hàng đầu làm tăng chi thường xuyên là bộ máy hành chính cồng kềnh nhưng hoạt động kém hiệu quả. Trong đó số lượng đơn vị sự nghiệp công lên tới 55.800 là quá nhiều. Như vậy, người giám sát có thể đặt câu hỏi: Có cần phải duy trì quá nhiều đơn vị sự nghiệp công như vậy không? Một trong các giải pháp khả thi mà Chính phủ cần xem xét thực hiện là chuyển giao một phần dịch vụ công, thậm chí cả một số dịch vụ hành chính công cho các tổ chức xã hội, cho các đơn vị tư nhân thực hiện. Ngành Tư pháp đã thực hiện thành công việc xã hội hóa dịch vụ công chứng mà trước đây chỉ có cơ quan nhà nước được phép làm. Ngoài ra, một số khoản chi như chi đi công tác trong và ngoài nước, tổ chức các hội thảo, hội nghị, tiếp khách đoàn vào, đoàn ra, khánh thành các công trình,… trong đó nhiều khoản chi không thật cần thiết cũng làm tăng chi thường xuyên.

Có thể nói, giám sát NSNN là vấn đề khó, chứa đựng nhiều mối quan hệ kinh tế và lợi ích phức tạp, gắn kết giữa vấn đề tài chính - ngân sách -chính trị và pháp lý. Để thực hiện giám sát NSNN có hiệu lực và hiệu quả cần lưu ý:

- Cải tiến cách thức làm báo cáo kết quả giám sát theo hướng lựa chọn tập trung vào những vấn đề tồn tại và kiến nghị những vấn đề cấp bách, quan trọng, liên quan trực tiếp tới đối tượng chịu sự giám sát. Kiến nghị phải có căn cứ, sát thực tiễn và có tính khả thi.

- Quan tâm đúng mức tới các kênh thông tin về tình hình kinh tế - xã hội và NSNN hàng năm qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua ý kiến của cử tri; qua phát hiện vấn đề trong quá trình hoạt động của các đại biểu Quốc hội ở địa phương, ngành...

Tóm lại, việc giám sát ở Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, còn nể nang, né tránh, chưa phát huy đầy đủ vai trò trách nhiệm, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả và chất lượng chưa cao. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này là năng lực giám sát của chủ thể thực hiện quyền giám sát còn hạn chế. Vì vậy, tăng cường bồi dưỡng nâng cao kiến thức cơ bản về tài chính - ngân sách và kỹ năng giám sát ngân sách là giải pháp quan trọng hàng đầu hiện nay trong việc thực hiện một nền tài chính quốc gia minh bạch, hiệu lực và đạt hiệu quả cao .

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Chính phủ, Báo cáo Quyết toán ngân sách nhà nước năm 2015 (trình Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ ba), số 206/BCCP;

2. Chính phủ, Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện ngân sách nhà nước 2016, tình hình triển khai thực hiện dự toán NSNN năm 2017 (trình Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ ba);

3. Francois Duluc (2011), Giám sát lập pháp ở Cộng hòa Pháp”, trong kỷ yếu hội thảo “Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, NXB Lao động;

4. Hiến pháp Việt Nam năm 2013;

5. Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi (2015) số 83/2015/QH 13 ngày 25/6/2015;

6. Luật số 87/2015/QH 13 về hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ngày 22/6/2015;

7. Quyết định số 958/QĐ/TTg ngày 27/7/2012 phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;

8. Yeonu Son, nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu lập pháp Hàn Quốc (2011), Giám sát lập pháp đối với cơ quan hành pháp trong Quốc hội Hàn Quốc: Chức năng và phương pháp, kỷ yếu hội thảo “Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền”, NXB Lao động.

9. Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội (2016), Cẩm nang hướng dẫn giám sát ngân sách nhà nước, NXB Tài chính.

EFFECTIVE SUPERVISING SKILLS FOR

THE STATE BUDGET IMPLEMENTATION

● PhD. BUI THI QUYNH THO

Head of Science Management Office, Ha Tinh University

ABTRACT:

When the national financial system is expected to develop as a modern, open, and transparent public governance one, which enhances accountability and community participation in the budget cycle. Hence, it is an urgent task to supervise the state budget revenues and expenditures in a rigorous, efficient and effective way, especially in the current context of the increasing state budget deficit, public debt reaching the safe level and the government debt exceeding the ceiling level. The article refers to monitor the development of state budget implement, through which, propose several suggestions and recommendations for effective monitoring skills for state budget implement.

Keywords: Supervising, state budget, overspending, government debt, public governance.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 09 tháng 08/2017 tại đây