Từ một chàng thanh niên Hà Tĩnh, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp khoa Hoá, Phạm Bá Kiêm về nhận công tác tại Viện Nghiên cứu Mỏ và Luyện kim. Từ đó đến nay đã hơn ba mươi năm, anh đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp nghiên cứu và thứ tài sản quý giá nhất của anh chính là: Trí tuệ. Tôi biết khi tôi nói điều này anh sẽ không vui vì anh không hề có ý định khoa trương điều gì, nhưng thiết tưởng, tất cả các nhà khoa học không thể không có tài năng và sự sáng tạo. Giá trị chất xám của anh thể hịên ở một loạt các đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ mà anh làm chủ nhiệm. “Thành quả này không phải là của riêng tôi, mà nó là sản phẩm của tập thể, là công sức của tất cả các anh em trong Viện”. Anh nói vậy, nhưng ai cũng biết, vai trò của chủ nhiệm đề tài mới thực sự là quan trọng, giống như một đầu tầu kéo cả đoàn tầu.
Năm 1975 – 1980, khi mới chỉ là một thanh niên hơn hai mươi tuổi, kĩ sư Phạm Bá Kiêm đã chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước về “Nghiên cứu công nghệ nhiệt nhôm sản xuất fero silic đất hiếm trên lò cảm ứng”. Sản phẩm của đề tài này đã được áp dụng vào sản xuất trục cán thép tại Công ty Gang thép Thái Nguyên, được TW Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM chọn tham gia triển lãm sáng tạo của Thanh niên các nước XHCN tại Matxcơva năm 1980, và được cấp bằng sáng tạo. Cuối năm 1980, đề tài được Bộ Cơ khí Luyện kim tặng phần thưởng… 41.000đ. “Ngày ấy, số tiền này là lớn lắm, nhận được vui không kể xiết”, anh hồn nhiên nói.
Sau đó là một loạt các công trình nghiên cứu mà anh say sưa làm việc không biết mệt mỏi. Năm 1985 – 1990, làm chủ nhiệm đề tài nghiên cứu công nghệ sản xuất hợp kim trung gian Nhôm – Kim loại đất hiếm, Nhôm – Silic- Kim loại đất hiếm. Năm 1990 – 2000, anh tích cực tổ chức sản xuất Fero đất hiếm và sản xuất Thiếc lò điện tại Viện Nghiên cứu Mỏ và Luyện kim. Năm 2000, anh chủ động đề xuất làm chủ nghiệm đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu công nghệ sản xuất hợp kim trung gian Nhôm – Titan – Bo bằng phương pháp nhiệt nhôm”. Đặc biệt, từ năm 2001 – 2003, anh chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước KC- 02- 15B phần “Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất hợp kim Fero đất hiếm Magie trung bình và Fero đất hiếm Magie trung bình có chứa Titan”. Đề tài này đã được Hội đồng khoa học Nhà nước đánh giá xuất sắc và được trao giải thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (VIFOTEC) năm 2004, được Bộ KHCN – Liên hiệp Hội KHKT Việt Nam tặng bằng khen và cúp, được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cấp bằng sáng tạo. Từ năm 2003 đến nay, anh tiếp tục làm chủ nhiệm một loạt các đề tài cấp Bộ khác, mà theo như lời anh nói thì tất cả các công trình nghiên cứu của anh đều mới, đều có tính chất đón đầu, dù hiệu quả kinh tế chưa cao, nhưng bước đầu đã đạt hiệu quả nhất định. “Làm việc nhiều như thế, có bao giờ anh cảm thấy mệt mỏi hay chán nản không?” – tôi hỏi. “Có chứ, làm việc gì cũng có lúc gặp khó khăn, huống hồ là nghiên cứu như chúng tôi. Không thể tránh được mệt mỏi, nhiều khi chán nản, nhưng nếu không được làm việc thì không hiểu mình sẽ như thế nào”. Quả đúng là như vậy, bởi vì bất cứ nhà khoa học nào cũng say mê với việc nghiên cứu của mình, và những thành công trong khoa học chính là lẽ sống lớn nhất để họ vươn tới. Với kỹ sư Phạm Bá Kiêm, thời gian không bao giờ là đủ. Ngày đến cơ quan, tối về quây quần với gia đình, anh không dám làm việc trong lúc vợ và con anh cần có anh để tâm sự và chia sẻ. Cho nên, khi mà những người thân yêu của anh đã đi ngủ, anh mới chong đèn đọc sách và nghiên cứu. “Tôi có một gia đình hạnh phúc, vợ hiểu chồng và con cái đều ngoan ngoãn, học giỏi”, anh nói vậy và tôi nhận thấy rất rõ sự mãn nguyện và tự hào bộc lộ trên gương mặt anh. Đúng vậy, còn có gì viên mãn hơn là có một gia đình hạnh phúc và được làm những gì mà mình say mê. Và để thực hiện được niềm say mê khoa học đó, anh sẵn sàng từ bỏ mọi niềm vui. Ngày trẻ, anh cũng lãng mạn, cũng làm thơ, nhưng bây giờ thì khác rồi, nghiên cứu khoa học không dành cho tâm hồn nghệ sĩ của anh một chút thời gian nào để thăng hoa nữa. Ngay cả cái thú rất đàn ông, thú uống rượu, nhiều lúc anh đã phải từ bỏ. “Uống rượu rồi chỉ muốn đi ngủ, làm việc cũng không đủ minh mẫn nữa”. Hoá ra là vậy. “Anh đúng là một nhà khoa học chân chính”, đấy là lời nhận xét của một người bạn sau khi nài nỉ anh đi uống rượu mãi mà không được. Chỉ vậy thôi cũng đủ để ta hiểu công việc nghiên cứu quan trọng như thế nào đối với một nhà khoa học như anh.
“Công việc với tôi không đơn thuần là để kiếm sống, mà nó mang lại cho tôi nhiều niềm vui”, anh nói vậy và kể cho tôi nghe về một kỷ niệm mà anh không bao giờ quên. Năm 2002, anh sang Ucraina và gặp Giáo sư M. I. Ga-xich ở đó, anh nói: “ở Việt Nam, sau ba mươi năm làm việc theo hướng nghiên cứu của giáo sư và đã có những thành công nhất định, hôm nay em mới được gặp thầy”. Rồi hai người ôm lấy nhau, rưng rưng xúc động, hai người ở hai phương trời khác nhau từ bao giờ đã hình thành tình thầy trò qua trang sách. Anh về Việt Nam mang theo quyển sách mà người thầy ở tận nước Nga tặng, người thầy chỉ gặp một lần mà anh không bao giờ quên.
Năm nay đã hơn năm mươi tuổi, nhưng nhìn anh vẫn còn rất trẻ và tràn đầy nhiệt huyết cho sự nghiệp mà anh đã lựa chọn. “Tôi sẽ làm việc cho đến khi không còn sức nữa thì thôi”, và anh hóm hỉnh “ngay cả khi Nhà nước “đuổi” không cho làm nữa thì tôi vẫn làm”. Nhìn anh cười thật tươi và sảng khoái, tôi chợt nhớ lại lời một người bạn nói đã nói rất đúng rằng: “Chẳng có ai hồn nhiên và đáng yêu bằng các nhà khoa học”