Pháp luật về quản lý thuế đối với cá nhân sáng tạo nội dung số tại Việt Nam

Bài báo nghiên cứu "Pháp luật về quản lý thuế đối với cá nhân sáng tạo nội dung số tại Việt Nam" do Luật sư Nguyễn Huỳnh Minh Hiếu (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) thực hiện.

Tóm tắt:

Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý thuế đối với cá nhân sáng tạo nội dung số, một nhóm chủ thể mới phát sinh trong bối cảnh phát triển của nền kinh tế số. Thông qua việc tổng hợp, đối chiếu các quy định hiện hành, tác giả chỉ ra các điểm còn bất cập trong cơ chế nhận diện nghĩa vụ thuế, đặc biệt đối với thu nhập phát sinh xuyên biên giới, thu nhập ẩn danh, các hình thức quà tặng ảo. Đồng thời, bài viết cũng phân tích hạn chế trong nhận thức và tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế, làm rõ những khó khăn trong cơ chế truy vết dòng tiền, kiểm soát thu nhập và khấu trừ thuế tại nguồn. Từ thực trạng đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, trong đó nhấn mạnh yêu cầu sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật thuế hiện hành để phù hợp với hình thức kinh doanh mới trên nền tảng số, cần xây dựng cơ chế thu thuế tại nguồn gắn với trách nhiệm pháp lý của các nền tảng số quốc tế hoạt động tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia.

Từ khóa: pháp luật về thuế, cá nhân sáng tạo nội dung số, nền tảng số, kinh tế số, quản lý thuế.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh kinh tế số phát triển mạnh mẽ, các mô hình tạo ra giá trị từ nội dung số (digital content) ngày càng trở nên phổ biến và đa dạng. Khái niệm “nội dung số” theo nghĩa rộng có thể bao gồm nhiều hình thức như bài giảng điện tử, xuất bản phẩm số, hình ảnh, âm nhạc, trò chơi trực tuyến. Tuy nhiên, nổi bật và có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong những năm gần đây là hoạt động sáng tạo và chia sẻ nội dung ngắn dưới dạng video, vlog, clip trên các nền tảng số như YouTube, TikTok, Facebook, Instagram và các mạng xã hội tương tự. Đây không chỉ là xu hướng giải trí đơn thuần mà đã trở thành một lĩnh vực lao động, kinh doanh đặc thù trong thời đại số.

Chủ thể trung tâm của hiện tượng này là các cá nhân, thường không có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập và tạo ra nội dung, thu được thu nhập từ nhiều nguồn: chia sẻ doanh thu quảng cáo, hợp đồng tài trợ, nhận “quà tặng ảo” từ người xem, từ các hợp tác thương mại với các thương hiệu. Đáng chú ý, các khoản thu nhập này có thể phát sinh từ trong nước và ngoài nước, được chi trả qua các nền tảng xuyên biên giới, có đặc điểm khó truy vết, không có hóa đơn chứng từ truyền thống và thường không thông qua hệ thống kiểm soát thuế truyền thống của Nhà nước.

Thực tiễn quản lý thuế tại Việt Nam cho thấy nhóm đối tượng này đang đặt ra nhiều thách thức về kỹ thuật pháp lý và thực thi chính sách. Một mặt, hệ thống pháp luật thuế hiện hành chưa có quy định riêng biệt điều chỉnh hoạt động sáng tạo nội dung số, khiến việc nhận diện nghĩa vụ thuế và áp dụng chế tài trở nên lúng túng. Mặt khác, công tác tuyên truyền, hướng dẫn kê khai thuế chưa theo kịp tốc độ phát triển của mô hình kinh doanh mới, trong khi cơ chế kiểm soát dòng tiền và thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn gặp nhiều khó khăn do đặc thù nền tảng số vận hành xuyên biên giới.

Từ thực trạng đó, bài viết tập trung phân tích pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến nghĩa vụ thuế đối với cá nhân sáng tạo nội dung số, chỉ ra điểm nghẽn trong cơ chế pháp lý và tổ chức thực hiện, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng phù hợp với đặc điểm nền kinh tế số. Trong đó, bài viết kiến nghị cần xây dựng một cơ chế thuế rõ ràng, minh bạch, có khả năng bao quát các hình thức thu nhập mới, bảo đảm nguyên tắc công bằng thuế trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Một số vấn đề lý luận và tổng quan nghiên cứu

Về phương diện lý thuyết, hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một khái niệm chính thức quy định cụ thể về “hoạt động sáng tạo nội dung số”. Tuy nhiên, dựa trên một số khái niệm có liên quan trong các văn bản pháp lý hiện hành, chúng ta có thể hình dung rõ hơn về bản chất và phạm vi của hoạt động này.

Theo khoản 11, Điều 3 Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 3/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin, “sản phẩm nội dung thông tin số” được hiểu là sản phẩm nội dung, thông tin bao gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh được thể hiện dưới dạng số và được lưu giữ, truyền đưa trên môi trường mạng.

Cũng trong Nghị định này, khoản 2, Điều 10 đã liệt kê các loại sản phẩm nội dung số bao gồm: Giáo trình, bài giảng, tài liệu học tập dưới dạng điện tử; sách, báo, tài liệu số, trò chơi điện tử trên máy tính, điện thoại, truyền hình tương tác; Sản phẩm giải trí trực tuyến trên mạng viễn thông; Thư viện số, kho dữ liệu số, từ điển điện tử; Phim ảnh, âm nhạc, quảng cáo dưới dạng số và các sản phẩm nội dung số khác.

Khái niệm này tiếp tục được sử dụng tại khoản 12, Điều 3 Thông tư số 40/2021/TT-BTC ngày 01/6/2021 của Bộ Tài chính là sản phẩm nội dung, thông tin bao gồm văn bản, dữ liệu, hình ảnh, âm thanh được thể hiện dưới dạng số, được lưu giữ, truyền đưa trên môi trường mạng.

Gần đây nhất, theo Điều 2 Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT ngày 24/01/2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (có hiệu lực từ ngày 11/03/2025), “nội dung số” được định nghĩa là nội dung tồn tại dưới dạng dữ liệu số, được mã hóa theo định dạng kỹ thuật số có thể đọc được và có thể được tạo ra, xem, phân phối, sửa đổi, lưu trữ bằng máy tính và công nghệ kỹ thuật số.

Từ những cơ sở pháp lý vừa nêu, có thể thấy: nội dung số là tất cả những thông tin được biểu diễn và vận hành trên nền tảng số, hoạt động sáng tạo nội dung số là quá trình tạo ra các thông tin đó với nhiều hình thức phong phú và mục tiêu sử dụng đa dạng.

Vì vậy, có thể hiểu: hoạt động sáng tạo nội dung số là quá trình mà cá nhân tạo ra các nội dung trực tuyến với mục đích tiếp cận và tương tác với người dùng. Những nội dung này có thể là video, hình ảnh, âm thanh, văn bản được đăng tải trên các nền tảng mạng xã hội phổ biến hoặc trên các website, blog cá nhân, nền tảng thương mại điện tử. Đây là một hoạt động ngày càng phổ biến, không chỉ trong giới trẻ mà còn ở các tổ chức, doanh nghiệp vì nó mang lại khả năng truyền thông rộng rãi, sáng tạo linh hoạt, cơ hội lớn về phát triển thương hiệu, kinh doanh, giáo dục trong môi trường số.

Cùng với sự phát triển của các nền tảng công nghệ, sáng tạo nội dung số là một nghề khá phổ biến hiện nay. Trên phạm vi toàn cầu, sáng tạo nội dung số đã và đang thu hút một lượng lớn lao động trình độ cao tham gia. Việt Nam được đánh giá là một thị trường sôi động. Sự phát triển nhanh của internet và các nền tảng số đã khiến hành vi đọc, xem, nghe của người trẻ cũng đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ, hình thành thói quen tiêu thụ các nội dung số ngày càng gia tăng. Đây là điều kiện thuận lợi giúp cho sự gia tăng của những người làm công việc sáng tạo nội dung số ở Việt Nam.

3. Chủ thể sáng tạo nội dung số

Chủ thể sáng tạo nội dung số (digital content creators) là những cá nhân hoặc tổ chức tạo ra các nội dung trực tuyến như video, hình ảnh, âm thanh, văn bản để chia sẻ lên các nền tảng số, mục đích có thể là giáo dục, giải trí, truyền thông, quảng bá thương hiệu hoặc kiếm thu nhập. Họ có thể là: YouTuber, TikToker, Vlogger, streamer là những người sản xuất video, phát trực tiếp trên mạng xã hội. Blogger hoặc người viết nội dung website, chia sẻ thông tin, kiến thức, trải nghiệm. Người làm podcast tạo các tập âm thanh chia sẻ về một chủ đề cụ thể. Nghệ sĩ kỹ thuật số như họa sĩ vẽ tranh kỹ thuật số, nhà thiết kế đồ họa, nhạc sĩ làm nhạc số. Chuyên gia nội dung số trong doanh nghiệp, phụ trách sản xuất nội dung truyền thông, marketing số, video quảng cáo và những giáo viên, chuyên gia đào tạo tham gia vào xây dựng bài giảng, khóa học online cũng là một dạng người sáng tạo nội dung số trong lĩnh vực giáo dục.

4. Các nguồn thu nhập phổ biến của người sáng tạo nội dung số

Trong thời đại số, việc trở thành người sáng tạo nội dung không chỉ dừng lại ở đam mê hay sở thích cá nhân. Với sự phát triển của các nền tảng trực tuyến, việc tạo ra nội dung số đã và đang trở thành một nghề nghiệp thực thụ, thậm chí là nguồn thu nhập chính của nhiều cá nhân và doanh nghiệp, hoạt động sáng tạo nội dung số ngày nay còn mở ra cơ hội thu lợi nhuận rất lớn. Từ việc kiếm tiền trên YouTube, hợp tác quảng cáo với nhãn hàng, nhận tài trợ, bán sản phẩm hoặc dịch vụ cá nhân, mở lớp học trực tuyến, làm tiếp thị liên kết, người sáng tạo nội dung có thể xây dựng một hệ sinh thái thu nhập phong phú. Thực tế cho thấy, không ít cá nhân dù là người nổi tiếng hay những người bình thường, với một chiếc điện thoại và ý tưởng độc đáo, đã có thể tạo ra nguồn doanh thu đáng kể từ việc sáng tạo nội dung trên nền tảng số. Từ đó có thể thấy, sáng tạo nội dung số không chỉ là một hoạt động mang tính sáng tạo và kết nối cộng đồng, mà còn là một lĩnh vực có tiềm năng kinh tế rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế số đang ngày càng phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam và trên toàn thế giới. Chính vì tiềm năng kinh tế rõ rệt đó, người sáng tạo nội dung số không chỉ tạo ra giá trị tinh thần mà còn tạo ra dòng tiền thật sự từ các nền tảng kỹ thuật số. Họ có thể kiếm được thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau, với mức độ ổn định, đa dạng và tăng trưởng tùy thuộc vào mức độ sáng tạo, mức độ phổ biến, khả năng tương tác với cộng đồng. Trong đó có thể kể đến một số loại thu nhập như sau:

Thứ nhất, thu nhập từ nền tảng. Đây là nguồn thu nhập chủ yếu của nhiều nhà sáng tạo nội dung. Các nền tảng thường chia sẻ doanh thu quảng cáo dựa trên số lượt xem, tương tác và thời lượng xem video.

Thứ hai, thu nhập từ hợp tác với nhãn hàng. Hợp tác với các nhãn hàng là một trong những cách thức phổ biến để nhà sáng tạo nội dung kiếm tiền. Các hình thức hợp tác đa dạng: quảng cáo sản phẩm trên video, bài đăng trên mạng xã hội, tham gia vào các chiến dịch tiếp thị dài hạn.

Thứ ba, thu nhập từ người theo dõi. Người theo dõi đóng vai trò quan trọng trong thành công của các nhà sáng tạo nội dung. Ngoài việc tương tác, họ còn có thể đóng góp tài chính thông qua các hình thức như cho tiền, mua hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo.

Gần đây, hình thức bán hàng qua phát hình trực tiếp rất được ưa chuộng. Với hình thức này, những người thực hiện sẽ có doanh thu trực tiếp từ người mua hàng và được chia hoa hồng từ doanh thu như các đầu mối kinh doanh thông thường.

Thứ tư, thu nhập từ các hoạt động khác. Bên cạnh các nguồn thu nhập chính, nhà sáng tạo nội dung còn có thể kiếm tiền từ các hoạt động khác như: tham gia sự kiện, chụp hình, đóng phim quảng cáo, được mời tham gia các dự án về kinh doanh hoặc giải trí khác.

5. Khung pháp lý quản lý thuế đối với hoạt động sáng tạo nội dung số

Tại Thông tư số 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh quy định: “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN. Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định”.

Tại Điều 17 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định trách nhiệm của người nộp thuế: Thực hiện đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật. Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng thời hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế. Nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm. Chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Ghi chép chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và giao dịch phải kê khai thông tin về thuế. Lập và giao hóa đơn, chứng từ cho người mua theo đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật. Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế, bao gồm cả thông tin về giá trị đầu tư; số hiệu và nội dung giao dịch của tài khoản được mở tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định. Người nộp thuế thực hiện hoạt động kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin phải thực hiện kê khai, nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật. Căn cứ tình hình thực tế và điều kiện trang bị công nghệ thông tin, Chính phủ quy định chi tiết việc người nộp thuế không phải nộp các chứng từ trong hồ sơ khai, nộp thuế, hồ sơ hoàn thuế và các hồ sơ thuế khác mà cơ quan quản lý nhà nước đã có. Xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo đảm việc thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan quản lý thuế, áp dụng kết nối thông tin liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với cơ quan quản lý thuế. Người nộp thuế có phát sinh giao dịch liên kết có nghĩa vụ lập, lưu trữ, kê khai, cung cấp hồ sơ thông tin về người nộp thuế và các bên liên kết của người nộp thuế bao gồm cả thông tin về các bên liên kết cư trú tại các quốc gia, vùng lãnh thổ ngoài Việt Nam theo quy định của Chính phủ.

Trong công tác quản lý thuế đối với chủ thể sáng tạo nội dung tại Việt Nam, ngành Thuế đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt trong việc tăng cường thanh tra, kiểm tra và ứng dụng công nghệ số trong quản lý, hỗ trợ kê khai thuế. Cơ quan thuế đã chủ động thanh tra, kiểm tra một số doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh nội dung số nhằm kịp thời phát hiện, xử lý và hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đúng quy định. Bên cạnh đó, để nâng cao nhận thức và hỗ trợ người dân thực hiện đúng nghĩa vụ thuế, cơ quan thuế đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn thông qua nhiều hình thức: tổ chức hội thảo, tập huấn trực tiếp, đăng tải tài liệu trên website chính thức và gửi Thư ngỏ đến các cá nhân có dấu hiệu phát sinh thu nhập từ nền tảng số để nhắc nhở, cung cấp thông tin và hướng dẫn kê khai. Cùng với đó, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin cũng được chú trọng. Tổng cục Thuế đã phát triển và nâng cấp nhiều ứng dụng điện tử như eTax, eTax Mobile, Cổng Dịch vụ công của Tổng cục Thuế giúp cá nhân dễ dàng thực hiện đăng ký, kê khai và nộp thuế mọi lúc, mọi nơi. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người sáng tạo nội dung và nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong công tác quản lý thuế hiện đại. Những nỗ lực của cơ quan thuế không chỉ góp phần tăng cường nguồn thu ngân sách nhà nước, mà còn tạo dựng một môi trường hoạt động minh bạch, có định hướng rõ ràng cho các nhà sáng tạo nội dung số, một nhóm chủ thể đang ngày càng đông đảo, có ảnh hưởng và đóng vai trò tích cực trong nền kinh tế số hiện nay. 

quản lý thuế

Hình ảnh minh họa: Thư ngỏ của Cục Thuế

Song song với những kết quả bước đầu đạt được trong công tác tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ người nộp thuế, cơ quan quản lý nhà nước đang không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đưa hoạt động kinh doanh trên nền tảng số vào khuôn khổ quản lý chặt chẽ, minh bạch và đồng bộ hơn.

Một minh chứng rõ rệt là vào ngày 9/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2025/NĐ-CP quy định cụ thể về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử và nền tảng số của hộ kinh doanh, cá nhân. Đây là một bước đi quan trọng, thể hiện nỗ lực chủ động của Nhà nước trong việc theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số, đồng thời tạo ra công cụ pháp lý hiệu quả để quản lý thuế với các chủ thể mới như các cá nhân sáng tạo nội dung số.

Một số nội dung đáng chú ý trong Nghị định này bao gồm: Tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử trong và ngoài nước thuộc đối tượng khấu trừ, nộp thuế thay (bao gồm chủ sở hữu trực tiếp quản lý nền tảng thương mại điện tử hoặc người được ủy quyền quản lý nền tảng thương mại điện tử) thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo quy định của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với mỗi giao dịch cung cấp hàng hóa, dịch vụ phát sinh doanh thu ở trong nước của hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử. Tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử trong và ngoài nước thuộc đối tượng khấu trừ, nộp thuế thay (bao gồm chủ sở hữu trực tiếp quản lý nền tảng thương mại điện tử hoặc người được ủy quyền quản lý nền tảng thương mại điện tử) thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay hộ, cá nhân cư trú số thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với mỗi giao dịch cung cấp hàng hóa, dịch vụ phát sinh doanh thu trong và ngoài nước của cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử; thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay hộ, cá nhân không cư trú số thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đối với mỗi giao dịch cung cấp hàng hóa, dịch vụ phát sinh doanh thu trong nước của cá nhân không cư trú có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử”.

Sự ra đời của Nghị định này giúp cơ quan thuế chủ động hơn trong việc thu thập, xác minh thông tin thu nhập của cá nhân kinh doanh trên nền tảng số, khẳng định định hướng chuyển đổi số trong quản lý thuế, hướng tới mô hình quản lý thuế hiện đại, dựa trên dữ liệu và liên thông số giữa các bên liên quan.

Qua đó có thể thấy, Nhà nước đang từng bước khép kín các khoảng trống pháp lý trong quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh phi truyền thống, trong đó có hoạt động sáng tạo nội dung số, nhằm đảm bảo công bằng nghĩa vụ thuế, tăng thu ngân sách và xây dựng môi trường kinh doanh số lành mạnh, minh bạch và bền vững.

6. Những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động sáng tạo nội dung số tại Việt Nam

Dù cơ quan thuế đã có nhiều nỗ lực trong việc tăng cường quản lý thuế đối với các cá nhân sáng tạo nội dung số, tuy nhiên trên thực tế, việc triển khai vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, do các nguyên nhân về mặt pháp lý, kỹ thuật và nhận thức xã hội. Các bất cập chính có thể được phân tích như sau:

Thứ nhất, ý thức chủ quan về việc tuân thủ và kê khai thuế của người sáng tạo nội dung số.

Ý thức tuân thủ và tự kê khai còn thấp trong cộng đồng sáng tạo nội dung số được xác định là một trong những rào cản, trở ngại và khó khăn hiện tại lớn nhất trong công tác quản lý thuế đối với chủ thể kinh doanh sáng tạo nội dung số tại Việt Nam.

Cuối năm 2020, Việt Nam có khoảng 15.000 kênh YouTube được bật kiếm tiền, nhưng chỉ khoảng 30% (tương đương 5.000 kênh) trong số đó thuộc diện quản lý qua công ty mạng và kê khai, nộp thuế đầy đủ. Điều này có nghĩa, khoảng 70% (tương đương 10.000 kênh) còn lại chưa đăng ký nghĩa vụ thuế hoặc kê khai thu nhập đầy đủ. Tình trạng tương tự cũng được ghi nhận đối với nhiều TikToker và streamer. Thực tế này cho thấy một lượng thu nhập rất lớn từ nội dung số chưa được kiểm soát thuế, dẫn đến nguy cơ thất thu ngân sách (Cao Nguyên, 2021).

Nguyên nhân của việc thiếu nhận thức và tuân thủ tự nguyện: Đa phần các cá nhân sáng tạo nội dung số hoạt động tự do và chưa có ý thức đầy đủ về nghĩa vụ thuế. Nhiều người sáng tạo không công khai doanh thu của mình do thiếu nhận thức về trách nhiệm kê khai hoặc lo ngại về quyền riêng tư. Họ thiếu hiểu biết về quy định thuế. Hiện tại, không có quy định cụ thể nào tại Việt Nam yêu cầu người sáng tạo nội dung số phải tự kê khai và nộp thuế; họ thường dựa vào hiểu biết cá nhân hoặc thuê các chuyên gia thuế và pháp lý. Tỷ lệ tuân thủ thuế còn thấp và người nộp thuế thường không kê khai đầy đủ thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau.

Thứ hai, tính ẩn danh và khó khăn trong truy vết dòng tiền.

Rào cản lớn nhất nằm ở tính ẩn danh, phân tán của hoạt động kinh doanh nội dung số và sự chưa tương thích hoàn toàn của khung pháp lý, cơ chế quản lý hiện tại. Các nhà sáng tạo nội dung số dễ dàng sử dụng không gian mạng để kiếm tiền xuyên biên giới, vượt ngoài khuôn khổ quản lý truyền thống, gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc đưa họ vào diện quản lý chính thức. Những trở ngại này cần được nhìn nhận thấu đáo để từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu.

Khó khăn trong truy vết dòng tiền: cơ quan thuế Việt Nam phải tự lần theo dấu vết dòng tiền bằng cách yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin tài khoản nhận tiền từ Google, Facebook. Tuy nhiên, việc triển khai này không dễ dàng và đầy đủ, người nộp thuế có thể tránh bằng cách sử dụng nhiều tài khoản hoặc trung gian khác. Ngân hàng đôi khi cũng yêu cầu kế hoạch hoặc quyết định thanh tra để cung cấp thông tin giao dịch.

7. Đề xuất giải pháp trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động sáng tạo nội dung số tại Việt Nam

Thứ nhất, nhận thức và sự tự nguyện tuân thủ của người nộp thuế là rất quan trọng.

Cơ quan thuế cần đẩy mạnh tuyên truyền qua nhiều kênh (báo chí, mạng xã hội, hội thảo) để người sáng tạo nội dung hiểu rõ nghĩa vụ thuế của mình. Nhấn mạnh rằng nộp thuế là trách nhiệm công dân và đóng góp cho xã hội, đồng thời cảnh báo các chế tài nếu vi phạm. Hiện nay, pháp luật đã quy định các mức phạt hành chính nghiêm khắc: nộp chậm, khai sai thuế đều bị xử phạt tiền theo Nghị định số 125/2020; trường hợp trốn thuế với số tiền lớn có thể bị truy cứu hình sự về tội trốn thuế theo Điều 200 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Việc công khai một số trường hợp điển hình bị xử phạt, truy thu lớn (như vụ một cá nhân bị Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh truy thu và phạt 4,1 tỷ đồng do nhận hơn 41 tỷ đồng từ Facebook, Google trong 2 năm nhưng không kê khai và nộp thuế (Lệ Chi, 2018) cũng là bài học răn đe. Cơ quan thuế nên hướng dẫn, hỗ trợ tối đa để người nộp thuế thực hiện dễ dàng: thiết kế các cổng kê khai thuế điện tử thân thiện cho nhóm cá nhân kinh doanh, có đường dây nóng giải đáp về thuế cho các chủ thể sáng tạo nội dung số. Khi thủ tục đơn giản, minh bạch, người nộp thuế sẽ bớt tâm lý e ngại. Thậm chí, có thể vinh danh những cá nhân tiêu biểu chấp hành tốt nghĩa vụ thuế trong lĩnh vực nội dung số, tạo hình ảnh tích cực để người khác noi theo. Kết hợp cơ chế hỗ trợ tận tình nhưng cũng xử lý nghiêm minh sẽ tạo dựng văn hóa tuân thủ thuế trong cộng đồng sáng tạo nội dung số.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung, cập nhật quy định đối với các hình thức kinh doanh mới sáng tạo nội dung số.

Cần rà soát, sửa đổi các luật thuế và các văn bản dưới luật để phù hợp với các hình thức kinh doanh mới nổi như quà tặng ảo và các hình thức tiếp thị liên kết. Việc xác định rõ bản chất pháp lý và cơ chế tính thuế cho các nguồn thu nhập này sẽ giảm thiểu sự mơ hồ. Đối với cơ chế thu thuế tại nguồn: pháp luật cần quy định rõ ràng cơ chế thu thuế tại nguồn đối với giao dịch thương mại điện tử và sáng tạo nội dung số. Ví dụ, xem xét cho phép thu thuế giá trị gia tăng ngay tại điểm cung cấp dịch vụ để tránh thất thu.

8. Kết luận

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số, đặc biệt là sự bùng nổ của các nền tảng chia sẻ nội dung trực tuyến đã làm xuất hiện một nhóm chủ thể mới trong đời sống kinh tế và xã hội là các cá nhân sáng tạo nội dung số. Nhóm đối tượng này ngày càng đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tạo ra nguồn thu nhập đáng kể. Tuy nhiên, sự mới mẻ và linh hoạt của hình thức hoạt động này cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý thuế nói riêng.

Qua phân tích thực trạng pháp luật thuế hiện hành, có thể nhận thấy hệ thống quy định pháp lý hiện tại còn thiếu các thiết chế phù hợp để điều chỉnh hiệu quả hoạt động của cá nhân sáng tạo nội dung số. Việc chưa có định nghĩa pháp lý, cơ chế kê khai, khấu trừ, kiểm soát thu nhập xuyên biên giới, lúng túng trong nhận diện nghĩa vụ thuế đã và đang làm giảm hiệu lực thực thi pháp luật, ảnh hưởng đến tính công bằng và minh bạch trong quản lý thuế.

Từ đó, bài viết nhấn mạnh sự cần thiết phải hoàn thiện khung pháp luật thuế theo hướng thích ứng với đặc điểm của nền kinh tế số, trong đó bao gồm việc sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành, xây dựng các quy phạm điều chỉnh đặc thù, thiết lập cơ chế thu thuế tại nguồn từ các nền tảng xuyên biên giới, đồng thời tăng cường công nghệ số trong giám sát và hỗ trợ tuân thủ thuế. Đây là tiền đề quan trọng để bảo đảm công bằng thuế, tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế số tại Việt Nam./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Chính phủ (2007). Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 3/5/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin.

Bộ Tài chính (2021). Thông tư số 40/2021/TT-BTC ngày 01/6/2021 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

Bộ Giáo dục đào tạo (2025). Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT ngày 24/01/2025 quy định Khung năng lực số cho người học.

Chính phủ (2025). Nghị định số 117/2025/NĐ-CP quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của hộ, cá nhân.

Cục Thuế (2025). Thư ngỏ về thực hiện nghĩa vụ thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số ngày 12/5/2025.

Chính phủ (2019). Luật Quản lý thuế (Luật số 38/2019/QH14) ngày 13/6/2019.

Cao Nguyên (2021). Lỗ hổng thất thu thuế từ 10.000 kênh YouTube. Truy cập tại

Quốc hội (2015). Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Lệ Chi (2018). Một thanh niên ở TP. Hồ Chí Minh kiếm 41 tỷ từ Facebook, Google trong 2 năm. Truy cập tại https://vov.vn/kinh-te/mot-thanh-nien-o-tphcm-kiem-41-ty-tu-facebook-google-trong-2-nam-794564.vov

Tax management law for digital content creators in Vietnam

Nguyen Huynh Minh Hieu

Lawyer, Hanoi Bar Association

Abstract:

This study examines the current legal framework governing tax management for digital content creators in Vietnam, an emerging group of taxpayers in the digital economy. By synthesizing and comparing existing regulations, the study identifies significant shortcomings in defining tax obligations, particularly with respect to cross-border income, anonymous income, and virtual gifts. It also highlights challenges in taxpayer awareness, voluntary compliance, income tracing, cash flow monitoring, and withholding mechanisms. Based on these findings, the study proposes several reforms, including amending and supplementing tax laws to better accommodate new digital business models, and developing a source-based collection mechanism tied to the legal responsibilities of international digital platforms operating in Vietnam. These recommendations aim to strengthen tax management in the context of national digital transformation.

Keywords: tax law, digital content creators, digital platforms, digital economy, tax management. 

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 25 năm 2025] 

Tạp chí Công Thương