Chuyển dịch năng lượng để phát triển bền vững
Các nguồn năng lượng tái tạo đã hỗ trợ tích cực cung cấp các nguồn điện cho miền Bắc khi khu vực này thiếu nguồn, phụ tải tăng cao (như thời gian tháng 5-6/2021), góp phần đảm bảo cung ứng điện cho cả giai đoạn 2021 – 2025, giảm phát thải khí nhà kính và các phát thải ô nhiễm khác như SOx, Nox, bụi, nhiệt.
Đây là thông tin được cung cấp tại Diễn đàn “Chuyển dịch năng lượng của Việt Nam hướng đến phát triển bền vững” với chủ đề phát triển và khai thác có hiệu quả năng lượng tái tạo do Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương) phối hợp với Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vừa qua.
Diễn đàn có sự tham dự của ông Nguyễn Đức Hiển - Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương; ông Phạm Nguyên Hùng - Phó cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương; bà Ngô Thúy Quỳnh - Phó vụ trưởng Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương; ông Đặng Hải Anh - Trưởng phòng Dầu khí, Vụ Dầu khí và Than, Bộ Công Thương cùng các chuyên gia, đại diện các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng.
Theo Báo cáo tại Diễn đàn, trong vài thập kỷ vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng với việc chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sử dụng năng lượng chủ yếu dựa trên các loại nhiên liệu sinh khối truyền thống sang một nền kinh tế sử dụng các dạng năng lượng tổng hợp và hiện đại. Tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) đầu người đã tăng từ 114 USD (năm 1990) lên 2.587 USD (năm 2018), như là dấu mốc quan trọng, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia thu nhập trung bình.
Do đó, trước bối cảnh nhu cầu về năng lượng tăng lên nhanh chóng, Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp cải thiện và nâng cấp hạ tầng ngành năng lượng, trong đó phải kể đến Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tại Diễn đàn, các nhà quản lý, chuyên gia đã thảo luận một số nội dung nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý và chính sách, tạo thuận lợi cho phát triển năng lượng quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW.
Ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, theo tinh thần Nghị Quyết, sắp tới Quốc hội sẽ sửa đổi Luật Dầu khí và hoàn thiện các luật chuyên ngành về điện lực, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và các luật khác liên quan đến ngành năng lượng để làm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ chế thị trường.
Đồng thời, nghiên cứu, thực hiện luật hóa việc điều hành giá điện và một số ưu đãi cho các dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng; hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối điện lực; nghiên cứu, xây dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo.
Theo ông Hiển, Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị được đánh giá cao và toàn diện, được các tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp và xã hội đánh giá cao. Vấn đề hiện nay là cần sớm thúc đẩy để thể chế hóa và cụ thể hóa Nghị quyết thành các chiến lược và chính sách cụ thể. Để thực hiện thành công Nghị Quyết 55, ông Hiển nêu ra 4 vấn đề trọng tâm.
Thứ nhất, nhận diện và dự báo xu thế chuyển dịch năng lượng trên thế giới và làm rõ những vấn đề đặt ra đối với chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Đánh giá tác động của đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế đến chuyển dịch năng lượng.
Thứ hai, đánh giá và làm rõ tác động của chuyển dịch năng lượng đối với ngành công nghiệp dầu khí, công nghiệp than và các phân ngành khác của Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất định hướng các cơ chế, chính sách để thúc đẩy chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam, bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu nêu tại Nghị quyết 55. Trong đó, tập trung vào các nội dung phát triển năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; chính sách giảm sâu phát thải CO2; chính sách phi carbon hóa gắn với phát triển năng lượng điện trong giao thông vận tải; cơ sở hạ tầng; môi trường và thị trường điện cạnh tranh.
Thứ tư, đề xuất và kiến nghị các giải pháp, chính sách đối với ngành dầu khí để có thể xây dựng và phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trở thành Tập đoàn kinh tế - năng lượng – công nghiệp tham gia mạnh mẽ vào quá trình chuyển dich năng lượng.
Cùng chung với quan điểm với ông Nguyễn Đức Hiển về hiệu quả của của việc chuyển dịch năng lượng tại Diễn đàn, các đại biểu cũng cho rằng hiệu quả sử dụng năng lượng đang ngày càng được cải thiện và các dạng năng lượng cuối được sử dụng dưới dạng điện đang ngày càng phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông vận tải do ứng dụng các tiến bộ của khoa học, công nghệ, nhất là các công nghệ của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.
Các đại biểu cũng đã chia sẻ kinh nghiệm về một số xu hướng chính phát triển năng lượng được quan tâm hiện nay như: dịch chuyển dần từ dầu sang khí; tăng cường tích hợp lọc-hóa dầu; phát triển năng lượng tái tạo; sự phát triển của nền kinh tế methanol, nền kinh tế hydro; chuyển hóa CO2; tiết kiệm năng lượng... Nhiều tập đoàn dầu khí trên thế giới đã xác định định hướng chiến lược chuyển đổi từ mô hình tập đoàn dầu khí thành tập đoàn năng lượng để thích ứng với xu thế và yêu cầu chuyển dịch năng lượng.
Đảm bảo an toàn hệ thống điện
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Phạm Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, cho biết tính đến hết ngày 31/12/2020, trong tổng số 69.340 MW công suất lắp đặt nguồn điện toàn quốc, 16.420 MW điện mặt trời (bao gồm 8.673 MW điện mặt trời tập trung và 7.755 MW điện mặt trời mái nhà), 514 MW điện gió, 382,1 MW điện sinh khối, 9,43 MW điện rác. Tổng công suất lắp đặt điện năng lượng tái tạo chiếm hơn 25% tổng công suất lắp đặt toàn hệ thống.
Kết quả thực tế năm 2019 và 2020, sản lượng điện phát từ nguồn năng lượng tái tạo đạt tương ứng 5,242 tỷ kWh và 10,994 tỷ kWh đã góp phần giảm đáng kể điện chạy dầu giá cao. Nếu so sánh số liệu nguồn điện dầu thực tế được huy động với dự báo của Tập đoà n Điện lực Việt Nam (EVN) thì điện chạy dầu đã giảm 2,17 tỷ kWh năm 2019 và giảm 4,2 tỷ kWh năm 2020 (tiết kiệm khoảng 10.850 tỷ VNĐ – 21.000 tỷ VNĐ). Các nguồn năng lượng tái tạo đã hỗ trợ tích cực cung cấp nguồn điện cho miền Bắc khi miền Bắc thiếu nguồn, phụ tải tăng cao (như thời gian tháng 5-6 năm 2021), góp phần đảm bảo cung ứng điện cho cả giai đoạn 2021-2025, giảm phát thải khí nhà kính và các phát thải ô nhiễm khác như SOx, NOx, bụi, nhiệt.
Ông Phạm Nguyên Hùng cũng thẳng thắn đưa ra những hạn chế, khó khăn trong quá trình chuyển đổi năng lượng như hệ luỵ không nhỏ cho an toàn vận hành, an ninh hệ thống điện, tăng truyền tải 500 kV (do điện mặt trời/điện gió hầu hết phát triển ở khu vực miền Nam và miền Trung, nơi có tiềm năng tốt hơn) tác động đến huy động công suất và số lần tăng/giảm công suất của các nhà máy nhiệt điện, tua bin khí, làm tăng chi phí, giá thành ngành điện, nhất là trong điều kiện hiện tại một số loại hình năng lượng tái tạo vẫn đang có giá thành đắt hơn nhiều so với giá thành bình quân ngành điện.
Chính vì vậy, ông Hùng đã đưa ra những đề xuất như khống chế tỷ lệ điện mặt trời ở mức khoảng 20% công suất hệ thống, kết hợp phát triển các nguồn linh hoạt như thuỷ điện tích năng, nguồn động cơ đốt trong, pin lưu trữ,... và nâng cao khả năng điều khiển hệ thống điện cho các Trung tâm Điều độ.
Đồng thời, ưu tiên phát triển điện mặt trời mái nhà với quy định tỷ lệ điện tự sử dụng tại chỗ (80% tự sử dụng - 20% sản lượng thừa cho phép bán ra, hoặc một tỷ lệ hợp lý khác); nguồn điện này đấu nối vào lưới điện từ 35 kV trở xuống, không yêu cầu cải tạo nâng khả năng tải của lưới điện và các dự án điện mặt trời nổi trên mặt nước với điều kiện việc lắp đặt thiết bị trên mặt nước không làm ảnh hưởng đến hoạt động của công trình, hồ chứa, hoạt động nuôi trồng thuỷ hải sản.
Ngoài ra, Việt Nam cần kiểm soát để tỷ lệ điện gió trên bờ và điện mặt trời ở mức hợp lý, dựa trên khả năng hấp thụ và điều khiển của hệ thống điện quốc gia ở từng thời điểm cũng như phù hợp điều kiện kỹ thuật - vận hành. Nhờ đó, an toàn của hệ thống điện quốc gia và từng vùng không bị ảnh hưởng.