[TỔNG THUẬT TOẠ ĐÀM] Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

Tại Tọa đàm do Tạp chí Công Thương thực hiện sáng 09/12, đại diện cơ quan quản lý Nhà nước, chuyên gia và doanh nghiệp đã tập trung thảo luận về: Tình hình sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường cho sản phẩm cơ khí của nước ta hiện nay; những thuận lợi và những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đa dạng hoá thị trường, xúc tiến tiêu thụ các sản phẩm cơ khí Việt Nam...
Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
Khung cảnh Toạ đàm "Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí" do Tạp chí Công Thương tổ chức sáng 09/12

BTV Huyền My: Cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và trở thành một trong những ngành then chốt của nền kinh tế. Theo đó, ngày 15/3/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với quan điểm cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, gắn kết sản xuất cơ khí với dịch vụ, thương mại, phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chủ động tham gia sâu vào chuỗi giá trị, sản xuất công nghiệp thế giới. Kiến tạo thị trường cho doanh nghiệp cơ khí và tự động hoá, từ đó thúc đẩy năng lực nội tại của doanh nghiệp, cải thiện vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Thời gian qua, ngành cơ khí Việt Nam đã phát triển với nhiều chuyển biến tích cực, từng bước làm chủ công nghệ, mở rộng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và tỷ lệ nội địa hoá và phát triển thị trường.  Tuy nhiên, dù dư địa của ngành là rất lớn, song việc đa dạng và mở rộng thị trường đối với các doanh nghiệp trong ngành cơ khí vẫn hết sức khó khăn do vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài do năng lực cạnh tranh chưa đủ mạnh, chưa xây dựng được thương hiệu và được nhiều khách hàng tiềm năng biết đến.  

Theo nhận định của các chuyên gia, từ nay đến năm 2030, nhu cầu thị trường cơ khí khoảng 310 tỷ USD, riêng nhu cầu thị trường ôtô là 120 tỷ USD nhưng hiện Việt Nam mới đáp ứng 1/3. Cơ hội để chúng ta tiếp cận thị trường thế giới cũng rất lớn. Nếu tạo ra giá thành, thị trường ổn định… thì cơ khí Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ.

Vậy, giải pháp nào để khắc phục những khó khăn? Doanh nghiệp ngành cơ khí Việt Nam cần nắm bắt cơ hội nào để gia tăng xuất khẩu các sản phẩm trong bối cảnh mới, bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay?

Vấn đề này sẽ được chia sẻ với góc nhìn đa dạng và sâu sắc tại tọa đàm do Tạp chí Công Thương thực hiện. Tọa đàm với chủ đề: "Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí".

Tới dự Tọa đàm có sự tham gia của các vị khách mời. Xin trân trọng giới thiệu: 

- TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí

- Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội

- Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty Cổ phần Cơ khí chính xác Smart Việt Nam

Xin cảm ơn các vị khách mời đã đến với Tọa đàm của Tạp chí Công Thương ngày hôm nay. Và trước khi bắt đầu Chương trình, xin mời quý vị cùng theo dõi một phóng sự do Tạp chí Công Thương tổng hợp.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

BTV Huyền My: Câu hỏi đầu tiên xin được hỏi ông Phan Đăng Phong:

Ông có thể chia sẻ những điểm nổi bật về tình hình sản xuất kinh doanh và phát triển thị trường cho sản phẩm cơ khí của nước ta hiện nay?

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Có thể nói, những năm qua, với việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển của doanh nghiệp gắn với chiến lược, quy hoạch phát triển của các ngành kinh tế, cùng với sự cố gắng của nội tại các doanh nghiệp trong việc thiết kế, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo thì thị trường cơ khí trong nước đã có những chuyển biến rất tốt về cả lượng và chất.

Đơn cử, trong lĩnh vực sản xuất ô tô, xe máy, từ trước đến nay, các dây chuyền lắp ráp ô tô, xe máy hầu hết là do các đơn vị nước ngoài đảm nhận, ví dụ những đơn vị như Honda, Toyota, Huyndai,.. nước ngoài đảm nhận. Bắt đầu từ năm 2012, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã cử một đoàn kỹ sư đi học hỏi, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các đơn vị của Nhật, Hàn Quốc và đến thời điểm này thì chúng tôi đã tự chủ trong việc thiết kế, chế tạo các dây chuyền lắp ráp ô tô. Điển hình vừa rồi chúng tôi cũng đã thành công trong việc ứng dụng dây chuyền để sản xuất, lắp ráp ô tô của Vinfast và các dây chuyền lắp ráp đã đưa vào vận hành góp phần cho ra đời một số dòng xe như VF7, VF8, VF3,...

Và tôi cho rằng đây là một thành công và thể hiện được rằng người Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam chúng ta hoàn toàn có thể làm chủ được những công việc khó mà từ trước tới nay là đặc quyền của các nhà thầu nước ngoài.

Hay trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng mới thì chúng tôi cũng đã thành công trong việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ thực hiện hệ thống phao nổi và neo cho các dự án điện mặt trời.

Dự án đầu tiên mà chúng tôi ứng dụng là dự án điện mặt trời Đa Mi với công suất là 47,5 MW. Đó là dự án đầu tiên mà Việt Nam thực hiện. Sau đó, chúng tôi tiếp tục ứng dụng ở dự án Tầm Bó và Gia Hoét.

Hoặc là trong lĩnh vực các nhà máy tự động hóa quá trình sản xuất, vừa rồi, chúng tôi cũng ứng dụng cải tiến và lắp ráp toàn bộ hệ thống tự động hóa bao gồm từ khâu sản xuất đến khâu bốc dỡ, vận chuyển hàng cho Công ty CP Bột giặt Lix thuộc Tập đoàn Hóa chất. Chúng tôi làm được hai hệ thống dây chuyền sản xuất tự động như vậy và được chủ đầu tư đánh giá rất tốt, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất, giảm rủi ro trong quá trình sản xuất và năng suất lao động rất cao.

Hay là trong thời gian vừa qua, trong lĩnh vực thủy điện thì chúng ta đã rất thành công trong việc mà thiết kế chế tạo toàn bộ phần thiết bị, cơ khí thuỷ công cho các công trình thủy điện theo Quyết định 797/CP-CN và Quyết định số 400/CP-CN của Thủ tướng Chính phủ, trong đó các doanh nghiệp trong nước đã hoàn toàn tự lực, tự cường từ khâu thiết kế đến khâu gia công, chế tạo đến khâu thực hiện các dịch vụ kỹ thuật mà cụ thể là các dự án thủy điện Sơn La 2.400 MW , dự án thủy điện Lai Châu là 1.200 MW và góp phần đưa dự án thủy điện Sơn La vào vận hành sớm 3 năm và thủy điện Lai Châu vận hành sớm là 1 năm.

Tôi cho rằng đây là những thành công rất tiêu biểu cho việc phát triển thị trường của doanh nghiệp cơ khí trong nước.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí

BTV Huyền My: Bên cạnh những thành công trong kinh doanh và phát triển thị trường cho sản phẩm cơ khí, như trong video clip chúng ta vừa xem, dư địa phát triển thị trường cho sản phẩm cơ khí của chúng ta còn rất lớn. Trong khi đó, xuất khẩu hầu hết nằm trong khối doanh nghiệp FDI, tỷ trọng của doanh nghiệp Việt Nam còn khiêm tốn.

Theo ông, chúng ta đã đáp ứng được nhu cầu cung cấp sản phẩm cơ khí cho thị trường trong và ngoài nước như thế nào?  Vì sao chúng ta chưa tận dụng được hết lợi thế của các thị trường này?

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Một số thành công như vừa rồi tôi đã chia sẻ, thì đó là những thành công trong một số lĩnh vực cụ thể thôi, còn có thể nói, việc đáp ứng thị trường cơ khí trong nước và xuất khẩu thì chúng ta vẫn đang còn rất khiêm tốn, đặc biệt là trong lĩnh vực thiết bị toàn bộ, ví dụ như các nhà máy về nhiệt điện, thuỷ điện, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, xi măng hoặc sản xuất nguyên liệu,… thì chúng ta mới đáp ứng chưa đến 30% giá trị nhu cầu thiết bị.

Theo tôi, nguyên nhân mà chúng ta chưa đáp ứng được nhiều là do chúng ta chưa có đủ, chưa có nhiều doanh nghiệp “sếu đầu đàn” để sở hữu các công nghệ nguồn, đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án trọn gói.

Ví dụ như trong lĩnh vực đường sắt đô thị hiện nay, hoặc là trong lĩnh vực các nhà máy điện khí, doanh nghiệp chưa có đủ các năng lực để làm tổng thầu hoặc làm trọn gói. Chỉ khi chúng ta có những doanh nghiệp đủ năng lực để làm tổng thầu thì chúng ta mới có thể phát triển các thiết bị phụ trợ của các dây chuyền thiết bị. Còn nếu chúng ta không làm chủ được thì nước ngoài làm chủ về phần này, họ sẽ đi thuê lại các nhà thầu, có thể là nước ngoài hoặc các nhà thầu phụ trong chuỗi của họ hoặc các nhà thầu phụ tại Việt Nam. Như vậy, chúng ta sẽ rất bị động trong phát triển các thiết bị phụ trợ.

BTV Huyền My: Ở góc độ là đại diện cho các doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội, thưa ông Nguyễn Đức Cường, ông có thể chia sẻ về tình hình sản xuất kinh doanh và phát triển thị trường của các doanh nghiệp cơ khí nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội hiện nay?

Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội:

Về cơ bản, tình hình phát triển các doanh nghiệp về sản xuất, chế biến chế tạo cơ khí nói chung và các doanh nghiệp của Hà Nội hiện nay nói riêng, đầu tiên, chúng ta nhìn thấy rằng

Thứ nhất, trong tất cả các báo cáo của các Bộ, ban ngành thì chúng ta đều thấy có sự tăng trưởng. Nói về ngành cơ khí thì rất rộng, bao gồm cả cơ khí xây dựng, cơ khí nông nghiệp, nhưng trong toạ đàm này chúng ta sẽ quay lại ngành công nghiệp cơ khí gia công chế tạo, trong ngành công nghiệp hỗ trợ, thì như phóng sự vừa xem, chúng ta có 3 phân ngành chính gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy; cơ khí gia dụng và dụng cụ và ô tô và phụ tùng ô tô.

Trong lĩnh vực gia công chế tạo máy, chúng ta thấy rằng, tỷ trọng doanh nghiệp FDI đang tham gia hoạt động sản xuất tại Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn; trong đó các doanh nghiệp Việt đa phần là sản xuất linh, phụ kiện chi tiết để cung cấp ngược lại cho các doanh nghiệp FDI, bên cạnh đó là sản lượng dành cho xuất khẩu thì đây là 2 phần chính, còn những doanh nghiệp Việt để có được tên tuổi, thương hiệu mà đưa ra một sản phẩm của doanh nghiệp Việt thì hiện nay là rất hạn chế.

Thời gian vừa qua, cũng có bên Vinfast hoặc là một số thiết bị như nồi hơi Đông Anh, hay là những thiết bị về Tủ Trung Hạ thế,… thì đó là những sản phẩm có thể nói là made-in-Vietnam 100%.

Trong đó, tại khu vực Hà Nội và các thành phố, các tỉnh lân cận Hà Nội, đa số tập trung các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp FDI, bởi thế nên là các doanh nghiệp Việt Nam tại khu vực TP. Hà Nội đa phần là phát triển cho ngành phụ trợ, cung cấp phụ tùng cho các ngành giống như ngành điện tử, máy in, máy giặt giống như của các hãng như Canon, Samsung hoặc LG,…

Thứ hai, phụ tùng cho các ngành ô tô, xe máy như Honda, Yamaha là chính.

Còn các phần sản xuất, gia công, chế tạo thì đa số tại TP. Hà Nội hiện nay chúng tôi khảo sát thì cũng không có nhiều và một số công ty thì có sản xuất các linh, phụ kiện của mình để xuất khẩu đi ngước ngoài.

Đó là những tình trạng chung trong phát triển ngành công nghiệp TP. Hà Nội và trong thời gian vừa rồi cũng có những dự án, đề án để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội, trong đó có rất nhiều những doanh nghiệp thuộc TP. Hà Nội đã đăng ký tham gia.

Cũng giống như trong năm 2023, tổng kết lại thì trong tổng số sản phẩm thì có 10 mục sản phẩm của ngành sản xuất, gia công chế tạo cơ khí thuộc sản phẩm chủ lực của TP. Hà Nội, chiếm đến 30% tổng số sản phẩm về công nghiệp của TP. Hà Nội. Sơ bộ đây là những phần chúng ta đã xây dựng và phát triển được trong thời gian vừa qua.

BTV Huyền My: Đâu là điểm đột phá của doanh nghiệp cơ khí của Hà Nội khi tham gia vào chuỗi cung ứng, mở rộng thị trường những năm gần đây? 

Doanh nghiệp cơ khí đang có cơ hội, thuận lợi và có những khó khăn trong phát triển thị trường như thế nào?

Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội:

Về tình hình sản xuất trang thiết bị và cơ khí nói chung, đặc biệt là của Hà Nội thì điểm đột phá lớn nhất đó là Quyết định số 496/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội. Khi đề án xuất hiện thì chúng ta mới có những chương trình hỗ trợ, thực thi triển khai rất mạnh mẽ và phải thông qua các báo cáo cụ thể.

Từ năm 2021 đến năm 2024, Hà Nội đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp đăng ký tham gia chương trình các sản phẩm chủ lực này và hiện tại thành phố đã công nhận 172 sản phẩm thuộc 114 doanh nghiệp là sản phẩm công nghiệp chủ lực và đã vượt mục tiêu đề ra. Thì đây là một trong những đột phá của TP. Hà Nội trong năm vừa qua.

Thứ hai là việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư hoặc thu hút đầu tư từ nước ngoài. Đơn cử, thời gian vừa qua, ngày 2/10 đã diễn ra Lễ khai mạc Triển lãm MTA 2024 Hà Nội, đó là triển lãm chuyên về ngành sản xuất gia công cơ khí.

Tiếp đến, thành phố đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho 43 cụm công nghiệp với tổng diện tích 753 ha - đây là một trong những quỹ đất, quỹ hạ tầng rất lớn, chuẩn bị cho việc đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là ngành sản xuất, gia công cơ khí chế tạo.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội

Tổng quan lại trên phương diện góc nhìn cá nhân của tôi, tôi thấy rằng có những thuận lợi:

Thứ nhất, về chính sách, có nhận được sự quan tâm của Chính phủ và TP. Hà Nội. Cụ thể là những chính sách đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ hoặc như Quyết định về đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của TP. Hà Nội, hoặc là việc hỗ trợ vay vốn. Song, các chính sách này vẫn đnag ở trên phương diện tiếp cận và truyền thông, còn việc thực thi để thấy được những kết quả cụ thể thì vẫn đang còn nhiều vướng mắc, thì đây cũng là những khó khăn mà cần phải giải quyết.

Thứ hai, về nhà đầu tư, sự hiện diện của các tập đoàn lớn như Samsung, Intel, LF, Panasonic, Qualcomm hay một số đơn vị liên quan đến mảng ô tô như Huyndai bây giờ đã uỷ thác cho Thaco và Trường Hải để lắp ráp, hay kể cả Vinfast, đây là những cơ hội rất lớn để chúng ta có thể tiếp cận với các đối tác khách hàng từ nước ngoài. Bởi vì họ cũng sẽ cần rất nhiều nhà cung cấp để sản xuất linh, phụ kiện cho họ.

Bên cạnh đó, những yêu cầu của những tập đoàn này có một điểm mấu chốt để giúp chúng ta có một điểm thuận lợi, đó là với những yêu cầu của họ thì chúng ta mới biết đến tiêu chuẩn, thế nào là tiêu chuẩn châu Âu, thế nào là tiêu chuẩn Mỹ, tiêu chuẩn Nhật,… và chúng ta hình thành nên những bộ tiêu chuẩn để tuân thủ theo.

Thông qua việc tiếp cận và làm việc với các tập đoàn lớn, chúng ta sẽ được chuyển giao về công nghệ, học hỏi quy trình quản lý. Đây là một trong những điểm mà tôi đánh giá là rất có giá trị khi mà các tập đoàn lớn đầu tư vào Việt Nam, bên cạnh những đơn hàng.

Thứ ba, các Hiệp định hợp tác toàn diện với Mỹ thời gian vừa qua chúng ta đã ký và với Nga, các FTA như EVFTA hay CPTPP là những Hiệp định chúng ta đã ký kết. Chúng ta hợp tác với Mỹ toàn diện, vậy trong phần toàn diện đấy có phần phát triển kinh tế, và trong phần phát triển kinh tế sẽ có phần phát triển liên quan đến công nghiệp. Vậy thì sẽ cần một hoạt động xuyên suốt từ Chính phủ cho đến các đại sứ quán và đặc biệt là các tham tán giữa hai nước, đưa ra những mục tiêu tổ chức các buổi họp mặt giữa hai nước và giữa các doanh nghiệp hai nước để xúc tiến ra thành cụ thể. Bởi vì sau khi hợp tác, chúng ta sẽ phải có quá trình xây dựng để đạt được tiêu chuẩn mà họ đưa ra, và dựa trên sự hậu thuẫn của Chính phủ hai bên thì các doanh nghiệp cũng mạnh dạn hơn trong việc lựa chọn và quyết định đối tác, đồng hành cùng đối tác đó, thay vì tự doanh nghiệp phải bơi ở trên thị trường quốc tế.

Thứ tư, cơ chế giảm lãi suất. Tôi cũng không rõ nhưng trước đây khi tôi đầu tư trang thiết bị máy móc thì lãi suất đâu đó khoảng 8-10%, nhưng tại thời điểm hiện nay thì các ngân hàng đang chào sang phía chúng tôi là 5-5,5%, thì đó là việc giảm lãi suất từ ngân hàng và các tổ chức tài chính, tôi thấy điểm này cũng là lợi thế.

Thứ năm, đã hình thành các Hiệp hội ngành và hoạt động tương đối tốt, giống như Hiệp hội Cơ khí Việt Nam, Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hay Hiệp hội Doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ Hà Nội và từ đó triển khai các hoạt động như chia sẻ, đào tạo nội bộ, xúc tiến thương mại & đầu tư nội khối,… hay là những hoạt động cùng tổ chức các triển lãm ở nước ngoài hoặc trong nước, các Hiệp hội này đã đóng vai trò kết nối giữa các Bộ, ban ngành, các chính sách, đường lối để tuyên truyền tới các doanh nghiệp cụ thể trong ngành đó và các doanh nghiệp cơ khí hay kể cả các doanh nghiệp khác cũng cảm thấy rằng mình không giống như một người con bị lạc đàn mà cũng có những người con giống như mình đang hoạt động và sinh hoạt trong một tập thể.

Bên cạnh những lợi thế nêu trên, chúng ta gặp rất nhiều những khó khăn.

Thứ nhất, chúng ta biết rằng, khi đầu tư vào ngành sản xuất, đặc biệt là ngành sản xuất cơ khí thì sẽ cần đầu tư về cơ sở hạ tầng, sau đó là máy móc, trang thiết bị, sau đó là xây dựng hệ thống quy trình và phải có đơn hàng để tập dượt trong quá trình xây dựng quy trình đó. Điều này không chỉ diễn ra trong 1-2 tháng mà là 2-3 hoặc 5 năm và các doanh nghiệp họ rất khó khăn về vấn đề liên quan đến nguồn vốn, trong đó nguồn vốn đầu tư về đất đai, về nhà xưởng sau đó là máy móc và trang thiết bị, đặc biệt là máy móc và trang thiết bị thì không thể dùng đồ cũ hoặc đồ rẻ được vì những sản phẩm này là cơ khí chính xác, thì đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài chính. Theo đó, đa số các doanh nghiệp hiện tại vẫn phải dựa trên vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính để đầu tư và trong quá trình đó có thể 5-7 năm mới có thể thu hồi vốn, nhưng như lúc nãy tôi tính, với lãi suất 5% thì sau 10 năm, giá trị đầu tư đã tăng 50%. Như vậy, nếu như chúng ta có nguồn quỹ đất dành riêng cho doanh nghiệp mà không thu tiền thì chúng ta đã có một khoản lớn.

Thứ hai, nếu có nguồn vốn đầu tư không lãi suất thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội, tất nhiên không lãi suất chỉ trong một khoảng thời gian và phải có trách nhiệm hoàn lại, nhưng như vậy sẽ có một lượi thế hơn rất nhiều. Tôi đã đến Nhật thì họ cũng có những nguồn vốn giống như vậy và hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp.

Thứ ba, về nguyên vật liệu. Ví dụ như nguyên vật liệu thép thì ở Việt Nam gần như mới đang sản xuất dừng lại ở CT3 dành cho ngành xây dựng, nhưng nếu các mác thép cao hơn như C45 gần như chúng ta phải nhập khẩu và đa số thị trường nhập khẩu hiện tại là từ Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ hoặc Thái Lan và khi mà chúng ta bị động về nguồn nguyên vật liệu như thế này thì tất cả những biến động xảy ra trên thế giới như chiến tranh hay là dịch bệnh thì gần như là chúng ta thiếu quyền chủ động. Bên cạnh đó, chúng ta cũng hoàn toàn thiếu quyền chủ động trong việc quyết định giá.

Thứ tư là hạn chế về công nghệ hiện đại cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam, các ngành cơ khí thì ngoài những doanh nghiệp đầu đàn như anh Phong có chia sẻ là những con “sếu đầu đàn”, đa số tất cả anh em ngành cơ khí đều xuất phát lên từ nghề và những anh em này cơ bản sẽ sử dụng đa phần là kỹ năng, kinh nghiệm để mua những trang thiết bị đã qua sử dụng hoặc là máy giá rẻ, sau đó sử dụng những kinh nghiệm, kỹ năng của mình để đưa ra những sản phẩm nên các sản phẩm đạt chất lượng nhưng nếu số lượng lớn lại không đồng đều.

Ngoài ra, để sản xuất ra một sản phẩm thì ví dụ như nước ngoài họ cần 1 phút thì mình cần phải 1,5 phút thì đó cũng là một trong những hạn chế. Bởi vì khi nước ngoài họ đã đầu tư công nghệ về tự động hóa và hiện đại hóa thì hoàn toàn khâu con người và khâu kiểm soát chất lượng sản phẩm cũng như đo đạc là đều được tự động hóa. Nên đây là một trong những điểm mà tôi thấy khá là khó khăn cho doanh nghiệp Việt, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ năm, đa phần tất cả những sản phẩm tại Việt Nam hiện tại thì chiếm rất nhiều tỉ trọng trong việc gia công OEM cho các doanh nghiệp FDI. Bởi vậy thì sẽ không cần cái đội ngũ R&D, không cần đội ngũ thiết kế quá sâu mà đa phần họ cung cấp bản vẽ và mình gia công làm lại và đây cũng là một trong những điều mà rất nhiều doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động lâu trong tình trạng như vậy thì họ thiếu hẳn đi nhóm R&D nghiên cứu phát triển sản phẩm và khi mà R&D nghiên cứu phát triển sản phẩm còn nhiều hạn chế thì việc sáng tạo và đổi mới hoặc là ra những sản phẩm mới hoặc là tìm kiếm cơ hội mới thì sẽ hạn chế và gặp khó khăn.

Thứ sáu, như tôi nói lúc đầu, mặc dù cũng có rất nhiều chính sách nhưng mà các cơ chế, chính sách này thì vẫn đang còn dừng lại ở tuyên truyền và cũng có một số ít doanh nghiệp đã chạm vào cơ chế, chính sách này và đã hoàn tất. Nhưng ở đây các cơ chế, chính sách này vẫn còn rất nhiều những thủ tục pháp lý rồi, rất nhiều những quy trình còn đang rất có những vướng mắc mà cần tháo gỡ để làm sao cho thuận lợi hơn thì đấy cũng là một trong những điều khiến cho ngành sản xuất gặp những khó khăn nhất định.

Cuối cùng, sau tất cả những khó khăn bên trên kéo theo tình trạng là chi phí quản lý, chi phí sản xuất nó sẽ tăng cao và câu chuyện đó là lợi thế cạnh tranh về giá của anh ở đâu?

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

BTV Huyền My: Chúng ta vừa nghe chia sẻ của các đại biểu về tình hình chung của ngành cơ khí Việt Nam. Vậy với một doanh nghiệp cụ thể thì đang phát triển ra sao?  Tại Tọa đàm hôm nay có sự tham gia của một đơn vị cơ khí chính xác đã phát triển sản phẩm cơ khí tới hơn hơn 20 thị trường trong và ngoài khu vực như Mỹ, Nhật, Châu Âu, Châu Á, Đông Nam Á. Xin giới thiệu Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam.

Ông có thể chia sẻ những đặc điểm chính và vai trò của các thị trường tiêu thụ sản phẩm của Smart Việt Nam? Smart Việt Nam đã có những chiến lược và hành động như thế nào để mở rộng được thị trường như hiện nay?

Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam:

Như anh Cường vừa chia sẻ thì tình hình trong nước về ngành cơ khí, ngành gia công đang rất sôi động và có những tín hiệu tích cực.

Tuy nhiên, ở góc nhìn của một doanh nghiệp trực tiếp triển khai các thị trường quốc tế, hiện tại Smart chúng tôi tập trung 90% các hoạt động của mình vào các thị trường quốc tế. Chúng tôi đã xuất khẩu trên 20 quốc gia trên thế giới và đa dạng hóa thị trường, mang tính tập trung.

Với việc triển khai chiến lược đa dạng hóa thị trường, chúng tôi vẫn có những thị trường cốt lõi để tạo tiền đề, tạo sức bật cho doanh nghiệp để có nguồn lực để triển khai các thị trường quốc tế khác.

Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang được hưởng lợi rất nhiều từ làn sóng chuyển dịch từ các thị trường quốc tế, đặc biệt là các công ty họ muốn rút khỏi Trung Quốc và để đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ, giảm sự phụ thuộc vào các đối tác Trung Quốc thì có lẽ chưa bao giờ chúng ta có được cơ hội tốt như vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam khi đã được hưởng lợi và doanh nghiệp Việt Nam nào có sự chuẩn bị tốt thì chắc chắn sẽ có được thành công không nhỏ trong giai đoạn này. Đối với Smart, trong năm nay, doanh thu ước tính của chúng tôi đã tăng lên 260-280%.

Lý do thứ nhất là nhu cầu tăng đột biến của các khách hàng hiện tại chúng tôi đang có cũng như là có thêm những khách hàng mới đến từ các thị trường trọng điểm chúng tôi đang triển khai thì thị phần lớn của các sản phẩm tại Smart Việt Nam đang tập trung vào ba thị trường chính là Anh, Úc, Mỹ… Mỗi thị trường mà Smart triển khai có những câu chuyện riêng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp Smart thì như ở giai đoạn đầu khi chúng tôi triển khai thì thị trường đầu tiên là thị trường Nhật và kết hợp giữa triển khai thị trường Nhật và thị trường trong nước.

Tuy nhiên, đến một giai đoạn thì chúng tôi nhận thấy được là thị trường Nhật, so với các thị trường quốc tế khác thì quy mô rất nhỏ và nếu chúng tôi dồn toàn lực hay tập trung vào các thị trường Nhật như thế này thì rủi ro của chúng tôi gặp phải sẽ là rất lớn. Ví dụ như trong giai đoạn suy thoái kinh tế vừa rồi thì Nhật là một trong những nước có sự suy thoái rất lớn thì chắc chắn các doanh nghiệp tập trung vào thị trường Nhật sẽ gặp vấn đề. Theo đó, chúng tôi đã tiến hành việc đa dạng hóa thị trường mang tính chất tập trung vào các thị trường trọng điểm.

Chiến lược của Smart như thế nào để triển khai những thị trường như thế này:

Thứ nhất, chúng tôi đầu tư rất mạnh cho đội ngũ Sale và đội ngũ R&D. Trong đó, đội ngũ Sale của chúng tôi thì với những người thực sự có những năng lực rất tốt để có thể deal được những deal lớn và làm việc với các đối tác tại các quốc gia khác nhau để có thể cùng các đối tác đó lấy được những dự án từ nước ngoài về.

Thứ hai là tập trung vào R&N, như anh Cường chia sẻ, mình rất yếu về R&D. Tuy nhiên, khi chúng ta nhận được các dự án từ nước ngoài, đặc biệt là khi mà các đối tác, khách hàng chuyển từ Trung Quốc sang các quốc gia khác thì Trung Quốc họ sẽ không bao giờ chia sẻ về các bản vẽ, rồi các quy trình gia công như thế nào, họ chỉ cung cấp hình ảnh, cung cấp sản phẩm thực tế… Vậy thì bài toán này sẽ được giải như thế nào, buộc chúng ta phải đầu tư vào R&D. Chỉ cần khách hàng có ý tưởng, chỉ cần khách hàng có mẫu và muốn rút ra khỏi Trung Quốc thì chúng tôi sẽ tháo gỡ các khó khăn đấy và triển khai được giúp khách hàng xây dựng một sản phẩm hoàn chỉnh tại Việt Nam thì do đó chúng tôi cũng gặt hái không ít thành công trong giai đoạn vừa rồi.

BTV Huyền My: Ngoài những nỗ lực từ doanh nghiệp, quá trình tìm kiếm, phát triển thị trường cho sản phẩm của Smart Việt Nam trong thời gian qua đã có chắc hẳn đã nhận được sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước và địa phương.

Theo ông đâu là yếu tố quyết định thành công trong quá trình đa dạng hóa thị trường cho sản phẩm cơ khí. Và những lực cản nào gây cản trở quá trình này, khiến cho sản phẩm cơ khí của chúng ta chưa phát triển hết tiềm năng ở các thị trường?

Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam:

Tôi rất đồng tình với ý kiến của anh Cường rằng, chúng ta đã có những chính sách cho các doanh nghiệp nhưng hiện tại vẫn đang dừng lại ở khâu lý thuyết. Để các doanh nghiệp như chúng tôi tiếp cận được các chính sách như thế thì đang gặp rất nhiều khó khăn, thủ tục khá nhiều khiến cho các doanh nghiệp mong muốn đầu tư ngay, chớp lấy cơ hội ngay thì lại gặp vấn đề.

Ví dụ đơn hàng sắp tới, khách hàng muốn triển khai dòng sản phẩm này, tại đây, và doanh nghiệp thì đang thiếu máy móc như thế này. Có thể với nguồn lực nội tại của các doanh nghiệp cần một sự bổ sung nữa thì mới có được máy móc như thế, bởi chúng ta là gia công cơ khí chính xác, chúng ta không thể mua những thiết bị máy móc ngoài chợ hoặc đã qua sử dụng lâu năm thì tính chính xác sẽ không còn nữa. Khi mà việc phải trang bị những máy móc hiện đại như thế thì sẽ tốn rất nhiều nguồn lực, ngoài ra chúng ta còn phải cạnh tranh với các đối tác tại Trung Quốc, Malaysia và Ấn Độ, họ có những thiết bị rất hiện đại để đáp ứng được tiêu chuẩn, chất lượng quốc tế mà chúng ta không có thì chắc chắn chúng ta sẽ bị loại khỏi cuộc chơi ngay.

Tôi cũng mong là các chính sách cho doanh nghiệp hiện nay sẽ được đơn giản hoá, hoặc là mình sẽ có cơ chế nào để giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng hơn.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam

BTV Huyền My: Có thể thấy, bên cạnh những kết quả khả quan trong những năm gần đây, ngành cơ khí trong nước cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về thị phần tại thị trường trong nước cũng như quốc tế còn chưa cao.

Trong thời gian qua, các doanh nghiệp cơ khí đã được hỗ trợ những giải pháp và đã chuyển đổi như thế nào để nâng cao sức cạnh tranh, đa dạng hóa thị trường? 

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Thời gian vừa qua, Đảng và Chính phủ cũng luôn quan tâm hỗ trợ và đề ra các giải pháp để mở rộng thị trường cho các sản phẩm cơ khí. Có thể kể đến một số cơ chế, chính sách như sau:

Gần đây nhất là Nghị quyết 29 của Trung ương về việc tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045, trong đó đề ra các nhóm giải pháp, cũng như đề ra 6 nhóm công nghiệp nền tảng mà chúng ta phải tập trung phát triển trong thời gian tới và tôi cho rằng đây là một văn bản rất quan trọng để triển khai những công việc khác.

Ngoài ra, Quyết định 319 về chiến lược phát triển của ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến 2035. Theo đó, quy định rất cụ thể các cơ chế chính sách cũng như là các sản phẩm cơ khí trọng điểm để đầu tư phát triển sản xuất trong thời gian tới và tôi cho rằng các doanh nghiệp cơ khí căn cứ vào các sản phẩm cơ khí trọng điểm này để mình đầu tư theo định hướng, sản xuất ra những sản phẩm mà trong nước đang cần trong thời gian tới. Đây là một chiến lược cũng rất quan trọng.

Hay là Quyết định 1791 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế thí điểm thiết kế, chế tạo trong nước, các thiết bị nhà máy nhiệt điện đến năm 2025 thì đến thời điểm hiện tại các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm tự chủ hoàn toàn trong việc thực hiện thiết kế, chế tạo khoảng ít nhất là 7 hạng mục thiết bị BOP cho các nhà máy nhiệt điện, trong đó có hệ thống cung cấp than, hệ thống thải tro xỉ, hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống phòng cháy chữa cháy nước, làm mát tuần hoàn, trạm phân phối và gắn với trạm biến áp chính rồi là hệ thống ống khói. Hệ thống này trong nhà máy nhiệt điện chiếm khoảng 25-30% giá trị của thiết bị đầu tư của 1 dự án nhiệt điện.

Một dự án nhiệt điện 1.200 MW đầu tư khoảng 1,6-1,7 tỷ USD cho thiết bị thì 30% là cả một vấn đề lớn mà các doanh nghiệp tại thị trường trong nước hoàn toàn có thể làm được, mà các hạng mục sản phẩm này từ trước đến nay hầu hết đều là các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện.

Như vừa rồi các vị khách mời đã nêu, quan trọng nhất vẫn là khâu thiết kế, khâu thiết kế và khâu khâu công nghệ là chúng ta phải nắm được, thì từ khâu thiết kế, khâu công nghệ nắm được thì chính là sự hỗ trợ của nhà nước trong mua thiết kế và công nghệ cho dự án đầu tiên. Tôi cho rằng đây là một chính sách rất quan trọng.

Hay là trong lĩnh vực thủy điện, từ Quyết định 797/400, Nhà nước cũng đã hỗ trợ để mua công nghệ cho phần thiết bị cơ khí thủy công cho dự án đầu tiên là dự án thủy điện A Vương mà tôi nhớ thời điểm đó hình như Nhà nước chỉ hỗ trợ có 152.000 USD, mà 152.000 USD thời điểm đấy chúng ta mua được toàn bộ phần thiết kế kỹ thuật và công nghệ của phần thiết bị cơ khí thuỷ công và đến thời điểm này thì các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã làm được khoảng hơn 40 dự án thủy điện vừa và lớn trong nước, trong đó có dự án thủy điện Lai Châu là 1.200 MW, Sơn la 2.400 MW. Giá thành tại thời điểm này so với thời điểm chúng ta nhập khẩu trước đây thì đã giảm ít nhất 30% so trước đây và đặc biệt là khi mà chúng ta đã tự chủ trong vấn đề thiết kế của các thiết bị này thì chúng ta sẽ tự chủ trong vấn đề sửa chữa, bảo dưỡng và đặc biệt đấy cũng chính là an ninh năng lượng nếu như chúng ta tự chủ được chế tạo các thiết bị cho các nhà máy điện.

Hay là đối với ngành vật liệu xây dựng, Thủ tướng đã có văn bản 1266 về phát triển các thiết bị nhiệt dư cho các nhà máy xi măng, đến thời điểm này tôi cho rằng các doanh cơ khí trong nước cũng đã vận dụng cơ chế, chính sách này để thực hiện. Ví dụ như Viện Cơ khí bây giờ đang thực hiện 3 hệ thống cho xi măng Hoàng Mai phối hợp với nhà thầu nước ngoài, để chuyển giao công nghệ. Xi măng Hoàng Mai, xi măng Bỉm Sơn và xi măng Hoàng Thành rất hiệu quả.

Hay là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ thì Quyết định 68 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025 thì quy định rất cụ thể các cơ chế, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Từ quyết định này thì nhiều doanh nghiệp sản xuất thiết bị phụ trợ về cơ khí đã đầu tư và thành công. Đơn cử như lĩnh vực ô tô, xe máy mà tôi đã nói trước đó, các chính sách về phát triển cơ khí trong một số lĩnh vực thì đã thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và thực sự tạo cầu nối và tạo sự lan tỏa trong quá trình phát triển các sản phẩm cơ khí trong nước.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

BTV Huyền My: Theo ông, trong quá trình hấp thụ những chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp cơ khí đã tận dụng được cơ hội như thế nào và còn những điểm nghẽn nào cần giải quyết?

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Như tôi đã trao đổi, các doanh nghiệp cơ khí từ các cơ chế chính sách, từ các thị trường thì các doanh nghiệp cơ khí cũng từ nội tại của mình phát triển, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ và đã cố gắng để làm sao làm chủ được công nghệ, đặc biệt là những công nghệ nền, là công nghệ thiết kế để làm sao sản phẩm của mình là những sản phẩm bền vững.

Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng cơ chế chính sách ban hành thì đúng là vẫn còn những điểm nghẽn trong cơ chế chính sách mà chúng ta cũng cần phải xem xét. Ví dụ như việc xây dựng các mục tiêu trong các chiến lược, trong các quy hoạch, trong các chính sách thì còn thiên cao, chưa bám sát vào thực tế. Một số mục tiêu chưa cụ thể, dẫn đến khi chúng ta tổng kết, đánh giá thì không có định lượng cụ thể được.

Hay là một số cơ chế chính sách ưu đãi về tài chính, về đầu tư hoặc về thuế quan thì rất hợp lý và tốt cho các doanh nghiệp cơ khí. Tuy nhiên khi mà ứng dụng ý thì thực sự còn nhiều vướng mắc, thậm chí chậm và có độ trễ dẫn đến các doanh nghiệp rất khó để ứng dụng. Một số cơ chế, chính sách mà đưa ra thì còn tương đối là ngặt nghèo và chưa thực sự phù hợp và doanh nghiệp rất khó tiếp cận.

Do vậy, theo tôi, chúng ta cần phải có đánh giá, sơ kết chính sách phát triển cơ khí trong thời gian vừa qua, từ đó có những hiệu chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt vừa rồi chúng ta đã thông qua Luật Điện lực (sửa đổi), trong đó quy định rất nhiều cơ chế, chính sách để phát triển các thiết bị cơ khí điện trong thời gian tới và nếu trong quá trình sơ kết, đánh giá, tổng kết chúng ta đưa ra bổ sung được một số cơ chế, chính sách để phù hợp thì tôi cho rằng thời gian tới các doanh nghiệp cơ khí có sẽ có nhiều cơ hội để phát triển hơn nữa trong lĩnh vực của mình.

BTV Huyền My: Vai trò cầu nối của Hiệp hội sẽ được phát huy ra sao trong quá trình hỗ trợ, đòng hành cùng các doanh nghiệp để thúc đẩy mở rộng thị trường cho các sản phẩm cơ khí?

Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội:

Điều đầu tiên là chúng ta nhìn thấy mục đích và mục tiêu khi mở ra Hiệp hội là hiệp hội chuyên ngành, là “sân chơi” cho các đoanh nghiệp sản xuất cùng ngành với nhau. Đa phần các doanh nghiệp cùng ngành, đặc biệt là các doanh nghiệp ở Việt Nam nhỏ vừa thì chưa khai thác được thị trường quốc tế nên chính các doanh nghiệp nhỏ vừa này lúc đầu họ cạnh tranh lẫn nhau và khi sinh ra Hiệp hội đã hình thành nên sân chơi để các doanh nghiệp có cơ hội kết nối, theo đó từ những đối thủ nhỏ lẻ với nhau thì họ bắt đầu ngồi lại để bàn câu chuyện lớn hơn nên đó là một trong những giá trị về văn hóa, về tư tưởng mà tôi thấy Hiệp hội đang làm được. Trong đó, các Hiệp hội như tôi đã nêu ở trên thì đang làm rất tốt việc xóa tan rào cản, đó là chúng ta là những đối thủ cùng ngành. Bởi vì những anh em cùng ngành ngồi với nhau, làm được với nhau thì phải đi ra biển lớn cơ, chứ nếu ở trong nước thì đó là câu chuyện cạnh tranh.

Tiếp đến, thông qua Hiệp hội này thì thú thực là tất cả các anh em ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo này đa số là anh em xuất thân từ nghề, dẫn đến tình trạng là họ sẽ yêu máy, yêu nghề, yêu sản phẩm cơ khí, yêu thiết kế, yêu R&D và họ sẽ tập trung vào đó thôi, họ không quan tâm ở phía ngoài kia đang có chính sách gì, ra sao. Do vậy, thông qua Hiệp hội sẽ tuyên truyền, phổ cập tới từng hội viên những thông tin về chính sách, trong đó có những doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận chính sách rồi thì lại tổng hợp lại các bước đi hoặc là các quy trình để hỗ trợ các hội viên khác.

Bên cạnh đó thì việc kết hợp với các báo, đài, truyền hình hoặc thông tấn để giúp lan tỏa và gây dựng được tư tưởng là cùng đầu tư phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ đi hoặc cùng đầu tư ngành này, ngành kia đi thì đó cũng là một trong những điểm tôi thấy Hiệp hội đang phát huy tính năng của mình.

Tiếp đến là thời gian gần đây, để tăng tính đoàn kết và phá bỏ giới hạn cạnh tranh trong chính nội địa thì các hiệp hội đã, đang tổ chức các khoá học chia sẻ và học hỏi do các doanh nghiệp nội khối hoặc do các Hiệp hội tổ chức, hoặc là các tổ chức từ bên nước ngoài đào tạo cho các doanh nghiệp tại Việt Nam hiểu về yêu cầu, quy định của các doanh nghiệp Mỹ như thế nào. Sau đó bắt đầu mới có cơ hội để để sản xuất và xuất khẩu đi Mỹ thì tôi thấy là việc đào tạo này đang được triển khai khá mạnh mẽ.

Tiếp đến là việc các doanh nghiệp thông qua hiệp hội có những lịch để hoạt động chung với nhau, có những báo cáo tổng kết, từ đó có thể cùng nhau chia sẻ những chiến lược về giá, chiến lược về phát triển sản phẩm. Trước đây khi chưa có hiệp hội, anh em chưa có cơ hội để gần gũi nhau hoặc thân thiết nhau thì thú thực là mỗi bên báo một giá, đơn vị nào cũng muốn đơn hàng, dẫn đến giá đơn hàng cao thấp và người thiệt đó chính là những người nhận được làm.

Nhưng sau khi có Hiệp hội được thành lập thì tính đoàn kết của anh em đã tăng cao. Bên cạnh đó, anh em có tổ chức ra các hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư nội khối, tức là tổ chức mua chung hoặc là tổ chức chia sẻ đơn hàng, chia sẻ công đoạn trong đó doanh nghiệp A sẽ làm tiện, doanh nghiệp B làm mài, thì các doanh nghiệp sẽ khai thác được hết năng lực của nhau.

Tiếp đến là một trong những tính kết nối của Hiệp hội hiện tại bây giờ thì vẫn còn đang bị hạn chế, đó là Hiệp hội đứng ra tổ chức thì do nguồn kinh phí đa phần là do các hội viên đóng góp và Hiệp hội lại là tổ chức đứng giữa các Bộ, ban, ngành được các Bộ, ban, ngành phê duyệt để thành lập ra mục đích là gom nhóm các anh em để tạo ra các chuỗi. Nhưng tất cả các hiệp hội hiện tại thì thứ nhất là kinh phí hoạt động gặp nhiều hạn chế; thứ hai là khi có các chính sách hoặc các quy định hoặc quyết định của Chính phủ đưa xuống thì Hiệp hội có trách nhiệm thông tin lại cho các hội viên.

Nhưng khi các hội viên mong muốn thực hiện, mong muốn triển khai thì Hiệp hội lại rất thiếu người trong việc mà dẫn dắt hay hỗ trợ các hội viên thực hiện việc đó. Theo tôi thấy thì hiện nay Hiệp hội đa phần là bị hạn chế bởi 2 điểm tôi đã nêu và trong thời gian tới cũng rất cần có sự liên kết mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn giữa Hiệp hội, các Bộ, ban, ngành và các doanh nghiệp hội viên.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

BTV Huyền My: Ở góc độ doanh nghiệp, trong bối cảnh mới hiện nay, doanh nghiệp đã có những hoạt động cụ thể gì trong đầu tư cũng như sản xuất kinh doanh để nâng cao năng lực và mở rộng cũng như đa dạng hoá thị trường cho các sản phẩm?

Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam:

Bối cảnh mới hiện nay theo như trực tiếp doanh nghiệp đang triển khai thì chúng tôi thấy được chúng tôi có được những thuận lợi nhất định, và với cương vị là những người trực tiếp tham gia vào việc định hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp thì chúng tôi thấy rằng, đây là thời điểm “vàng” để chúng tôi đầu tư. Bởi vì, thứ nhất, nhu cầu của khách hàng hiện tại đang tăng rất mạnh, họ trước đây có thể đặt hàng ở rất nhiều quốc gia, tuy nhiên, với rào cản bất ổn về chính trị, địa chính trị họ bắt đầu rút dần việc đặt hàng tại Trung Quốc, dẫn đến những công ty đang nằm trong chuỗi cung ứng của họ có được thêm những đơn hàng mới, có thêm những dòng sản phẩm mà hiện tại họ đang sản xuất tại Trung Quốc, theo đó, sản lượng của các khách hàng đang tăng rất mạnh.

Thứ hai là doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong ngành sản xuất đang được hưởng lợi rất nhiều từ các làn song chuyển dịch của các khách hàng mới, do đó nếu chúng ta không chủ động chớp lấy cơ hội này thì chắc chắn là cơ hội sẽ vụt đi, và rất khó để chúng ta có lại những cơ hội như vậy. Đối với kinh doanh, quan trọng là tính thời điểm và thông tin, ai có thông tin trước, ai có chuẩn bị trước và ai biết được thời điểm nào sẽ diễn ra thì chắc chắn sẽ có đươc thành công không nhỏ.

Ở doanh nghiệp của chúng tôi, năm vừa rồi đã mở rộng quy mô nhà xưởng lên gấp đôi, đã mở thêm nhà máy mới với năng lực sản xuất tăng gấp đôi. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mua thêm rất nhiều máy móc, để tăng năng lực sản xuất nội tại cho các mặt hàng nội tại và để phục vụ cho hệ sinh thái của ngành gia công kim loại tấm.

Từ trước đến nay có thể chúng tôi chưa có máy móc để cắt ống, uốn ống thì giờ chúng tôi đã trang bị thêm để tăng thêm tính cạnh tranh về dòng sản phẩm, mở rộng thêm dải sản phẩm để có thêm nhiều cơ hội khác.

Đấy là những hoạt động đầu tư cụ thể của chúng tôi trong năm vừa rồi để nâng cao tính cạnh tranh cũng như mở rộng thêm dải sản phẩm để có thêm các khách hàng từ các quốc gia khác, lĩnh vực khác.

BTV Huyền My: Có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp cơ khí đang đứng trước cơ hội lớn khi thực thi một loạt các FTA thế hệ mới, giúp doanh nghiệp cơ khí có ưu thế hơn khi xuất khẩu, mở rộng thị trường, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài.

Theo ông, trước bối cảnh mới hiện nay, doanh nghiệp cơ khí trong nước đang có những cơ hội như thế nào trong việc đa dạng hóa thị trường? 

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Theo tôi, rõ ràng là các doanh nghiệp cơ khí hiện nay đang đứng trước rất nhiều những cơ hội và thách thức khi chúng ta đang thực hiện hàng loạt các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.

Về cơ hội, rõ ràng các doanh nghiệp cơ khí hiện nay có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường hơn khi xuất khẩu các sản phẩm của mình ra nước ngoài. Khi đó, chúng ta được hưởng các cơ chế ưu đãi trong các Hiệp định, ví dụ cơ chế ưu đãi về đầu tư, về thuế, về sản phẩm, và những cơ chế ưu đãi khác. Do vậy mà chúng ta sẽ có cơ hội cạnh tranh tốt hơn, sản phẩm có thể cạnh tranh tốt hơn so với các sản phẩm ở bản địa cũng như với những sản phẩm ở các nước mà cũng xuất khẩu vào mà chưa ký FTA với các thị trường đó.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thêm cơ hội nữa, đó là cơ hội khi chế tạo các sản phẩm tại Việt Nam thì chúng ta có cơ hội nhập khẩu các linh kiện, thiết bị với giá thành được ưu đãi, do vậy là người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi, khi mà chúng ta nhập khẩu linh kiện, thiết bị với giá thành hợp lý hơn thì chúng ta sẽ chế tạo ra những sản phẩm hợp lý hơn thì giá bán ra nó cũng sẽ hợp lý hơn, cạnh tranh hơn thì người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi trong việc này.

Bên cạnh đó, việc kêu gọi đầu tư đối với những nước có ký Hiệp định FTA với chúng ta cũng sẽ dễ dàng hơn, vì khi đó chúng ta tiến gần hơn, hiểu nhau hơn. Do vậy khi tiến hành các dự án đầu tư, liên doanh, liên kết với các đơn vị này nó sẽ thuận lợi hơn.

Tuy nhiên cũng có những thách thức nhất định. Rõ ràng là chúng ta có lợi thế khi xuất khẩu thì nước bạn cũng sẽ có lợi thế khi xuất khẩu sang Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh rất khốc liệt với những sản phẩm cùng loại khi nước bạn xuất khẩu sang, đồng thời, phải cạnh tranh về chất lượng, chúng ta phải làm sao đưa ra được sản phẩm cạnh tranh với giá thành hợp lý nhưng chất lượng luôn luôn đảm bảo bền vững, như vậy thì hàng hóa, doanh nghiệp mới phát triển bền vững được.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí

BTV Huyền My: Vậy thì giải pháp nào cần được triển khai để có thể thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như là mở rộng thị trường?

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Theo tôi, về giải pháp thúc đẩy nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường trước hết là doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ, định vào thị trường nào thì nghiên cứu cơ chế chính sách của thị trường đó, đặc biệt là cơ chế chính sách đã được 2 bên ký kết trong các FTA.

Ngoài ra, ở Bộ Công Thương hàng năm, mà đại diện là Cục Xúc tiến thương mại cũng phối hợp với các thương vụ nước ngoài tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại ở các nước sở tại, như vậy, các doanh nghiệp cần có những liên hệ với Cục Xúc tiến thương mại để có được kế hoạch, đưa catalogue sản phẩm của mình để quảng bá sản phẩm. Bên cạnh đó, tìm hiểu các thông tin của một số doanh nghiệp đã thành công ở thị trường đó để lấy đó làm kinh nghiệm để khi vào thị trường mới mình tránh được rủi ro.

Thứ hai, về nội tại các doanh nghiệp, tôi thấy cần đầu tư hơn nữa về nguồn nhân lực, trang thiết bị cũng như đầu tư công nghệ để có thể sở hữu các công nghệ của riêng mình, để khi có sản phẩm cần phải thay đổi thì chúng ta có thể thay đổi ngay mà không bị động đối với các đối tác nước ngoài.

Đồng thời, dây chuyền sản xuất thì cũng cần hiện đại hoá, đầu tư tốt hơn khi đó giá thành mới cạnh tranh, chất lượng đảm bảo thì mới tạo ra được sự bền vững cho sản phẩm của mình trong chuỗi sản phẩm toàn cầu.

BTV Huyền My: Hà Nội sẽ làm gì để có thể mở rộng thị trường cho các sản phẩm cơ khi nói riêng và Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ nói chung trong thời gian tới. Chúng ta sẽ làm gì và cần những trợ lực như thế nào để đa dạng hoá thị trường cho các sản phẩm cơ khí, nắm băt cơ hội tại thị trường trong nước cũng như đẩy mạnh xuất khẩu?

Ông Nguyễn Đức Cường - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội:

Hà Nội cũng đã đặt ra các mục tiêu để phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt là ngành công nghiệp hỗ trợ của TP. Hà Nội và cũng thông qua dự án xây dựng ngành công nghiệp chủ lực, cụ thể

Về mục tiêu chung thì mong muốn là thực hiện thiết thực và hiệu quả Quyết định 2316 của UBND TP. Hà Nội trong việc mà phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội giai đoạn 2020-2025, tất nhiên sẽ kết hợp và đồng hành với các chính sách của Bộ và của Chính phủ.

Tiếp đến, Hà Nội cũng có mục tiêu là trong năm 2025 đạt tới là 1000 doanh nghiệp được coi là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và hiện tại thì số lượng này thì mong muốn có khoảng 40% doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có hệ thống sản xuất đạt tiêu chuẩn quốc tế và đủ năng lực tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nhưng đây là mục tiêu mà TP. Hà Nội đưa ra, còn để thực hiện được mục tiêu này thì sẽ phải có sự đồng hành của doanh nghiệp và TP. Hà Nội cũng như là các thông qua tổ chức hiệp hội và Bộ, ban, ngànhh.

Tiếp đến là chỉ số phát triển trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 12% vào năm 2025, nhưng người thực hiện mục tiêu này là những doanh nghiệp cụ thể. Vì vậy, để hiện thực hoá mục tiêu này:

Thứ nhất, về chính sách hỗ trợ. Thú thực là những chính sách hỗ trợ hiện nay cần thông qua Hiệp hội để khảo sát nhu cầu của các doanh nghiệp cụ thể, để từ đó xé lẻ ra thực hiện theo nhóm. Bởi vì mỗi doanh nghiệp có một khó khăn khác nhau, và nếu đưa xuống một chính sách chung thì sẽ rất khó để triển khai, có những doanh nghiệp không cần, có doanh nghiệp cần vốn, có doanh nghiệp cần đào tạo, và có những doanh nghiệp thì cần tất cả. Vì vậy, đó là những việc TP. Hà Nội cần phải triển khai thực hiện. Và bởi vì đã có dự án phát triển ngành công nghiệp chủ lực rồi, dựa trên đà đó, phải đưa ra thành phố kiểu mẫu để đưa ra, xây dựng nên những phương thức, quy trình để chuẩn hoá, từ đó lan toả sang các tỉnh, thành phố khác, thì tôi thấy đó là một trong những việc mà TP. Hà Nội nên thực hiện để hiện thực hoá mục tiêu này.

Thứ hai là việc tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư. Nhưng thú thực chỉ có anh chị em nào tham gia Hiệp hội thì mới biết đến các hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư đó, còn một số anh chị em nằm ngàoi Hiệp hội hoặc đang sản xuất đơn lẻ hoặc rất nhỏ thì gần như không có thông tin. Bởi vậy, việc tổ chức các triển lãm tại Việt Nam và quốc tế cần phải mang tính chất thường niên, vào dịp cố định, đồng thời cần công báo trên các phương tiện truyền thông nữa. Có rất nhiều anh chị em hiện tại chưa biết ngành của mình có Hiệp hội hay các bạn du học nước ngoài, xuất khẩu lao động nước ngoài nhiều năm trở về có tài chính, có kinh nghiệp, nhiều bạn làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc về Việt Nam muốn khởi nghiệp về ngành công nghiệp hỗ trợ nhưng gần như thông tin đối với họ là rất mới thì tôi thấy hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư cần truyền thông, quảng bá mạnh mẽ hơn để nhiều người biến đến hơn.

Tiếp đến là nguồn nhân lực. Đa phần các trường đại học và cao đẳng, trường nghề sau khi đào tạo xong thì các doanh nghiệp đi tuyển dụng vẫn nói rằng không phù hợp. Vậy thì rất cần thiết có sự phối kết hợp giữa các trường học và các Bộ, ban, ngành cũng như các doanh nghiệp.

Tiếp đến là các chính sách hỗ trợ về vốn. Tuy nhiên, việc thúc đẩy giải ngân vốn vay ưu đãi cho các daonh nghiệp thì vẫn khá hạn chế. Và tôi thấy nếu đã có chủ trương đề ra rồi thì cần có sự sâu sát hơn nữa của các Bộ, ban ngành để nguồn tài chính được giải ngân một cách thực sự. Và doanh nghiệp được giải ngân phải thực sự là những doanh nghiệp “sếu đầu đàn” có khả năng quản lý tài chính, có năng lực về quản lý sản xuất để điều tiết các đơn hàng cho các doanh nghiệp nhỏ hơn ở bên dưới, hoặc các nhà thầu phụ, thì mới hình thành được mạng lưới chuỗi các nhà cung ứng, từ đó mới khai thác hiệu quả.

BTV Huyền My: Về phía doanh nghiệp, để có thể đáp ứng được tiêu chuẩn của chuỗi giá trị thì doanh nghiệp sẽ làm gì để tăng cường năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường, tận dụng hết các cơ hội từ các thị trường cơ khí. Chúng ta có mong muốn, đề xuất gì với các hành lang pháp lý và chính sách để phát triển thị trường cho sản phẩm cơ khí?

Ông Cao Văn Hùng - Giám đốc phát triển thị trường quốc tế, Công ty CP Cơ khí chính xác Smart Việt Nam:

Câu chuyện cạnh tranh hiện tại của chúng ta không còn là câu chuyện cạnh tranh trong nước nữa rồi, và để mở rộng thị trường, đặc biệt là các thị trường quốc tế thì câu chuyện cạnh tranh của chúng ta là các đối tác hoặc là các công ty tại các quốc gia khác có thể là Trung Quốc, Malaysia, Indonesia hoặc Ấn Độ…

Để nâng cao tính cạnh tranh về chất lượng thì chắc chắn chúng ta phải đầu tư. Trong ngành chúng tôi có thuật ngữ là 4M. Trong đó, chữ M đầu tiên là nguyên, vật liệu thì cái này nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp thì tôi không nói đến nữa. Chữ M thứ 2 là máy móc, đối với doanh nghiệp chúng tôi thì chúng tôi hoàn toàn có thể đẩy mạnh đầu tư máy móc sẽ giúp cho việc tự động hóa các khâu sản xuất trong nhà máy nâng cao được năng lực nội tại của nhà máy cũng như giảm thiểu tối đa việc gia công bằng tay dẫn đến lỗi xảy ra trong hoạt động này sẽ giảm thiểu tối đa, bởi vì mình làm bằng máy thì chắc chắn sẽ tốt hơn làm bằng tay. Chữ M thứ ba là quy trình, chúng tôi đang làm rất mạnh trong việc mà thắt lại các quy trình quản lý chất lượng cũng như áp những quy trình quản lý chất lượng của quốc tế trực tiếp vào nhà máy của chúng tôi để làm sao ra được sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế chứ không phải là theo tôi như thế là được rồi. Chữ M thứ 4 là về con người thì ngoài đầu tư vào đội ngũ nhân sự chất lượng cao trong việc triển khai khách hàng, trong việc nghiên cứu sản phẩm, cũng như triển khai sản phẩm, chúng tôi cũng đầu tư vào những nhân sự chất lượng cao, trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất tại cơ sở để có tính đồng bộ khi mà chúng ta nhận được dự án mà người trực tiếp làm lại không đủ năng lực thì lại là một vấn đề rất lớn. Thì đấy là các yếu tố mà chúng tôi sẽ thúc đẩy để tăng thêm tính cạnh tranh của của doanh nghiệp, đặc biệt là những cái doanh nghiệp sản xuất như chúng tôi.

Về đề xuất, mình cũng đã có những chương trình xúc tiến thương mại, đưa các doanh nghiệp Việt Nam có mong muốn kết nối với các đối tác nước ngoài đi theo để tạo thêm cơ hội cho doanh nghiệp thì tôi thấy đó là chương trình rất tốt. Như năm ngoái, trực tiếp doanh nghiệp chúng tôi đã được Bộ Công Thương gửi lời mời tham dự trong các hoạt động xúc tiến thương mại tại Mỹ, thì chúng tôi đã đi một vài bang và có được những thông tin mới về thị trường, đối tác mới, đấy là những điểm rất tích cực. Doanh nghiệp chúng tôi rất mong muốn các Bộ, ban, ngành sẽ có nhiều chương trình như vậy nữa để hỗ trợ thêm các doanh nghiệp với bối cảnh hiện nay, chúng ta rất thuận lợi, chúng ta có được nhu cầu thị trường mà không xúc tiến thì tất nhiên cơ hội sẽ vụt qua.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ hơn, không có đủ nguồn lực cũng như không có đủ đội ngũ chất lượng cao để deal những deal lớn thì các Bộ, ban ngành cần đứng ra để hỗ trợ doanh nghiệp để kéo họ lên chứ không phải để họ nằm mãi tại thị trường trong nước.

Ngoài ra, về vốn, đối với doanh nghiệp đang muốn trở thành những con “sếu đầu đàn” thì cần nguồn lực rất lớn về mở rộng quy mô hiện tại cũng như mở rộng thị trường, và chúng ta cũng cần đầu tư vào R&D nghiên cứu, chứ không thể dừng lại ở vấn đề đi gia công cho đối tác nước ngoài, mà chúng ta cần có những thương hiệu riêng, cần phải có những dòng sản phẩm và thế mạnh riêng để tạo sức bật và tạo ra những doanh nghiệp lớn để kéo những doanh nghiệp nhỏ hơn đi theo. Thì đây cũng cần sự chung tay của các Bộ, ban ngành và Chính phủ để hỗ trợ thêm cho các doanh nghiệp thực sự muốn triển khai những hoạt động như vậy.

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí

BTV Huyền My: Sau khi lắng nghe những chia sẻ, thưa TS. Phan Đăng Phong, chúng ta cần có thêm những chính sách như thế nào để có thể hỗ trợ phát triển thị trường cho các sản phẩm cơ khí, tận dụng thế mạnh của ngành và trong thời gian tới thì Bộ Công Thương sẽ có kế hoạch hành động cũng như là chính sách hỗ trợ như thế nào để phát triển thị trường cho các sản phẩm cơ khí, thưa ông?

TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí:

Hiện nay, Luật Điện lực (sửa đổi) đã được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2025, chúng tôi cũng đang được giao nhiệm vụ xây dựng đề án để phát triển thiết bị cơ khí điện, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa theo Quy hoạch điện VIII. Trong đó, có rất nhiều thiết bị của nhà máy điện mà chúng ta có thể xem xét để nội địa hóa. Như vậy, điều cần nhất của doanh nghiệp cơ khí hiện nay là Nhà nước làm sao mà giúp cho tạo bảo vệ thị trường, đặc biệt là những thị trường có dung lượng lớn như ngành đường sắt đô thị, đường sắt nội đô, và các nhà máy điện khí đầu tư trong thời gian tới hay là các dự án điện gió ngoài khơi, các dự án sản xuất nguyên vật liệu,…

Tất nhiên đối với một số dây chuyền thiết bị trong nước chưa sản xuất được nhưng chúng ta xác định là có dung lượng lớn thì chúng ta cần phải có chính sách đặc biệt để làm sao 1-2 doanh nghiệp trong nước có thể làm chủ được toàn bộ trọn gói các nhà máy, bằng cách chỉ định thầu cho một vài đơn vị trong nước để làm một vài dự án đầu tiên và thông qua việc chỉ định thầu này cho phép các đơn vị, cho kinh phí để mua và tiếp nhận chuyển giao công nghệ để sau dự án này họ có thể tự chủ, tự lực trong các dự án tiếp theo.

Có như vậy, công nghiệp hỗ trợ đi kèm mới phát triển được. Ví dụ như theo Quy hoạch điện VIII đến năm 2045 thì chúng ta sẽ đầu tư thêm tầm khoảng 32.000 MW nhà máy điện khí, khoảng 23.000 MW điện gió ngoài khơi và điện gió nội địa. Như vậy, với một nhà máy điện khí, theo thống kê trung bình riêng thiết bị là khoảng 0,95 triệu USD/MW và nhà máy diện gió khoảng 1,4 triệu USD/MW sản phẩm, thì chúng ta có một thị trường khoảng hơn 60 tỷ USD, mà theo đánh giá phương án thấp của tôi, chúng ta chỉ cần nội địa hoá 40% bao gồm thiết bị phụ trợ, các kết cấu thép, cầu thang, lan can sẽ là thị trường cơ khí đã có được 24 tỷ, đây là một thị trường rất đáng kể mà chúng ta có thể thực hiện được.

Ngoài ra, tôi cho rằng, hiện nay tôi được biết Bộ Công Thương đang xem xét để rà soát Quyết định 319 về chiến lược phát triển cơ khí Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2035, tôi cho rằng các doanh nghiệp cơ khí trong nước, các doanh nghiệp phát triển cơ khí thì cũng nên có những đề xuất để làm sao hiệu chỉnh, để đề xuất những ý kiến với Bộ để chúng ta có những sự hiệu chỉnh bao gồm cả các sản phẩm cơ khí trọng điểm để khi Quy hoạch ra đời, thực sự đi vào cuộc sống và làm sao mà chúng ta có thể ứng dụng được ngay, tránh những vướng mắc trong quá trình thực hiện.

BTV Huyền My: Như các vị khách mời đã chia sẻ, có thể thấy, thời gian qua, trong bối cảnh mới hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam cần xác định nhu cầu thị trường, chỉ rõ những khoảng trống để phát triển những lĩnh vực mà ngành có thể cạnh tranh, bên cạnh đó, cần chủ động tận dụng linh hoạt các Hiệp định tư do (FTA) nhằm thúc đẩy xuất khẩu tới các thị trường, tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Để làm được điều đó, rất cần có sự đồng hành của cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ Công Thương, Hiệp hội ngành hàng cũng như các địa phương trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, thúc đẩy đưa vào vận hành các dự án sản xuất công nghiệp mới nhằm phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, tăng năng lực phát triển sản xuất và nguồn hàng cho xuất khẩu.

Về phần mình, doanh nghiệp ngành cơ khí Việt Nam cần tiếp tục đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, gia tăng tỷ lệ nội địa hoá và hàm lượng công nghệ trong mỗi sản phẩm; không ngừng nâng cao năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Một lần nữa xin cảm ơn các vị khách mời đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay.

Xin chào, và hẹn gặp lại. 

Đa dạng thị trường, phát triển sản phẩm cơ khí
An Chi