Triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số trong công tác quản lý kỹ thuật, Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội (EVNHANOI) luôn chú trong xây dựng hạ tầng lưới điện thông minh vận hành trên nền tảng số. Hệ thống trạm biến áp không người trực là bước chuyển đổi số mạnh mẽ trong công tác điều hành, giám sát lưới điện tại EVNHANOI.
Hiện nay, EVNHANOI đang quản lý 60 trạm biến áp 110/220kV với tổng công suất 8698MVA; 111 đoạn tuyến đường dây 110kV với tổng chiều dài 1081.36 Km (trong đó có 945.78 Km đường dây nổi và 135.58 Km cáp ngầm); 02 đoạn tuyến đường dây 220kV, với tổng chiều dài 8,84 Km (trong đó có 8,34 Km đường dây nổi và 0,5 Km cáp ngầm).
Để vận hành một trạm biến áp truyền thống phải cần ít nhất từ 10 đến 15 công nhân để vận hành và giám sát các thông số. Bên cạnh đó, việc thao tác trong trạm theo mệnh lệnh điều khiển thông qua điện thoại sẽ tiềm ẩn các tình huống gây mất an toàn, rủi ro khi công nhân vận hành trực tiếp thao tác trên thiết bị.
Với mục tiêu là đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến để từng bước tự động hóa công tác sản xuất, kinh doanh. Từng bước thích ứng với những thay đổi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra chuyển biến mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực. Toàn bộ 60 trạm biến áp đã được EVNHANOI đầu tư vận hành không người trực từ đó giải phóng toàn bộ kíp trực, loại bỏ việc ghi chép, nhập thủ công toàn bộ các thông số của các thiết bị trạm.
Mô hình trạm biến áp không người trực được EVNHANOI áp dụng đã, đang phát huy hiệu quả rõ nét. Việc làm này nằm trong lộ trình xây dựng lưới điện thông minh để hướng tới mục tiêu hiện đại hóa, tự động hóa... Riêng đối với trạm biến áp 110kV xây dựng mới thì bắt buộc thiết kế theo tiêu chí không người trực nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, vận hành hệ thống lưới điện truyền tải. Mô hình này đã giúp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, đổi mới và cải tiến quy trình quản lý và vận hành hệ thống điện.
Trạm biến áp không người trực là giải pháp tối ưu cho điều khiển hệ thống điện trên địa bàn thủ đô hiện nay khi diện tích xây dựng trạm ngày càng thu hẹp. Cùng với đó các thao tác trên thiết bị và thu thập thông số vận hành đều được thực hiện tự động. Mọi hoạt động đóng cắt, vận hành lưới, giám sát quá trình hoạt động, thu thập dữ liệu của trạm đều được điều khiển, giám sát qua hệ thống camera từ Trung tâm điều khiển xa.
Qua đánh giá thực tế, nhận thấy trạm biến áp không người trực đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực như: Giảm thời gian thao tác vận hành, đóng cắt thiết bị; rút ngắn thời gian bảo trì bảo dưỡng, xử lý sự cố trạm biến áp... Rõ ràng, từ đây đã giảm tối đa nhân lực vận hành, giảm khối lượng công việc mà nhân viên vận hành phải thường xuyên theo dõi, ghi chép và báo cáo.
Với hệ thống điều hành SCADA việc chỉ huy, thao tác vận hành, đóng cắt thiết bị từ xa, Trung tâm điều khiển xa và các trạm biến áp 110kV không người trực đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Qua theo dõi trên hệ thống máy tính, các nhân viên trực sẽ nắm được thông số vận hành thực tế trên lưới điện như điện áp, dòng điện, công suất…
Từ đó, giảm tối đa nhân lực vận hành, nâng cao năng suất lao động, chi phí vận hành hệ thống, nâng cao độ tin cậy cung cấp điện và đảm bảo vận hành lưới điện an toàn. Thực hiện tốt công tác quản lý vận hành và giảm tổn thất điện năng. Hơn nữa trong điều kiện thời tiết xấu như mưa gió, bão lũ. Việc sử dụng hệ thống SCADA để thao tác cắt điện các đường dây, trạm biến áp, thực hiện cấp điện trở lại cho khách hàng nhanh hơn, ngăn ngừa nguy cơ sự cố gây mất an toàn cho người và thiết bị.
EVNHANOI chú trọng đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin và khoa học vào thực tế công việc. Việc vận hành trạm biến áp không người trực góp phần nâng cao độ tin cậy cung cấp điện, tạo ra bước đột phá trong điều khiển theo dõi, cập nhật tình trạng hoạt động của máy móc, thiết bị tại trạm biến áp; đồng thời tối ưu hóa nhân lực, tăng năng suất lao động trong công tác quản lý vận hành và giảm tổn thất điện năng. Trong thời gian tới, EVNHANOI tiếp tục triển khai trạm biến áp số để tăng tính chính xác, tính dự phòng và độ tin cậy cung cấp điện và sử dụng hiệu quả tối đa các bộ dữ liệu được thu thập để phục vụ công tác giám sát, quản trị và dự báo trong công tác vận hành.