Áp lực cạnh tranh
Không chỉ thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư như các FTA, AEC còn cho phép các lao động có tay nghề tự do di chuyển trong thị trường lao động rộng lớn của ASEAN với 300 triệu người trong độ tuổi lao động (trong đó Indonesia chiếm tới 40%, Philippines 16% và Việt Nam 15%).
Trước mắt, lao động trong 8 ngành nghề được tự do di chuyển trong ASEAN thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch.
Cùng với xu hướng mở cửa thị trường lao động, những lao động có tay nghề và kỹ năng sẽ được chào mời và di chuyển đến tất cả những thị trường có nhu cầu và được sẵn sàng chi trả mức lương, cũng như các điều kiện làm việc tốt cho họ. Theo khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO, 2014), gần 50% doanh nghiệp trong ASEAN rất có nhu cầu về các lao động lành nghề (bất kể họ đến từ đâu), do lực lượng lao động phổ thông, thậm chí là cử nhân mà họ đang sử dụng chưa có được các kỹ năng mà họ cần. Khi AEC chính thức được thành lập, lao động chất lượng cao (chuyên gia, thợ lành nghề…), có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và các kỹ năng làm việc quốc tế sẽ di chuyển tự do hơn giữa các nước ASEAN.
Những yêu cầu đổi mới
Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Với số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2014), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%, thị trường lao động Việt Nam rất dồi dào, nhu cầu lao động có tay nghề ngày càng gia tăng là một cơ hội rất lớn cho hoạt động đào tạo nghề của ngành Công Thương.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2014), chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á. Năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương. Từ năm 2008 trở lại đây, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Thâm dụng nhân công giá rẻ với năng suất lao động thấp, tiêu biểu trong các ngành công nghiệp như dệt may, da giày, chế biến thực phẩm… sẽ dẫn đến tình trạng nguồn lao động luôn biến động, chất lượng không cao, không có thời gian để nâng cao trình độ, tay nghề. Đối với các nghề như cơ khí, điện tử, máy công nghiệp…, thời gian đào tạo lâu hơn và lao động ổn định hơn do có thu nhập cao hơn, tuy nhiên các doanh nghiệp thường phải đào tạo lại khi tuyển dụng bởi các cơ sở đào tạo thiếu hệ thống máy móc, công nghệ đồng bộ để trang bị kỹ năng thực tế cho học viên. Năng suất thấp, thiếu lao động tay nghề, trình độ ngoại ngữ và các kỹ năng mềm khác đang khiến các lao động của Việt Nam yếu thế trong cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường lao động khi hội nhập.
Những cơ hội và thách thức nêu trên đặt ra yêu cầu cấp bách đối với đào tạo nghề trong ngành Công Thương về đổi mới toàn diện từ phương thức đào tạo đến kết nối với thị trường lao động, đầu tư mạnh mẽ cho phát triển lực lượng lao động có kỹ năng, để không chỉ có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa, mà còn tiến tới cung cấp lao động chất lượng cao cho các quốc gia khác trong khu vực.
Để làm được việc đó, ngành Công Thương cần đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề, tranh thủ học hỏi kinh nghiệm và hợp tác với các nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới, như: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Nhật Bản, Đức. Để chuẩn bị cho việc tham gia AEC, cần thúc đẩy hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, tăng cơ hội cọ xát và học hỏi cho các học viên và giáo viên của các cơ sở đào tạo nghề thông qua các chương trình liên kết đào tạo, giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, tham gia Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới,... từ đó, đẩy nhanh hơn quá trình đổi mới cơ cấu hệ thống dạy nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thiếu vốn và công nghệ là một hạn chế lớn trong các cơ sở đào tạo nghề của ngành Công Thương vốn đòi hỏi hệ thống trang thiết bị giảng dạy chi phí lớn, nên một yêu cầu quan trọng trong thời gian tới là phải tăng cường thu hút nguồn vốn nước ngoài và chuyển giao công nghệ cho đào tạo nghề trong ngành. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, việc áp dụng các mô hình từ những nước có điều kiện không quá chênh lệch và có các nghề lợi thế tương đồng với Việt Nam sẽ khả thi và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, cần gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống trao đổi thông tin thị trường lao động - việc làm trong ngành Công Thương, theo đó, không chỉ dừng lại ở các hoạt động giao lưu, kí kết các MOU, các doanh nghiệp cần trực tiếp tham gia vào việc đặt hàng, hoàn thiện các chương trình dạy như phối hợp với nhà trường xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh mục nghề, tổ chức cho học viên thực hành, đánh giá kết quả học tập của học viên…