Thị trường lớn nhất: EU
Cà phê là ngành hàng quan trọng, chiếm 3% GDP cả nước, kim ngạch xuất khẩu nhiều năm nay đều trên 3 tỷ USD. Trong những năm qua, dù kinh tế thế giới có nhiều thời điểm gặp khó khăn, xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng rất đáng kể đạt 8,2%/năm với kim ngạch bình quân 3,13 tỷ USD/năm giai đoạn 2011 - 2018, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước.
Các sản phẩm cà phê của ta đã xuất khẩu đến hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ nhất về xuất khẩu cà phê robusta, đứng thứ hai xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu, chiếm 14,2% thị phần, sau Brazil.
EU là thị trường tiêu thụ nhiều nhất cà phê của Việt Nam, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; tiếp theo là Đông Nam Á, chiếm 13% tổng lượng và tổng kim ngạch…
Các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới như Brazil, Indonesia, Colombia… chủ yếu xuất khẩu cà phê dưới dạng hạt (green bean), tức là chỉ dừng ở hoạt động sơ chế sau thu hoạch. Một số nước có hoạt động rang và xay nhưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng xuất khẩu cà phê.
Riêng với Việt Nam, kể từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, hoạt động sơ chế sau thu hoạch đã được hết sức quan tâm. Nhờ vậy, từ chỗ có giá bán tại cảng Việt Nam thấp hơn tới 400 - 500 USD so với giá tham chiếu tại Sở Giao dịch Hàng hóa Luân Đôn, Việt Nam đã dần thu hẹp được khoảng cách này và cho tới nay, giá bán cà phê Robusta của Việt Nam đã phù hợp với giá thị trường thế giới.
Chuỗi giá trị sản xuất, xuất khẩu
Trong thời gian qua, nhờ ưu đãi về thuế quan đối với cà phê chế biến từ các Hiệp định Thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết nên ngày càng nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm, chú trọng đầu tư vào các hoạt động chế biến sâu nhằm góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nói riêng và kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành nói chung.
Đến nay, cả nước đã có 97 cơ sở chế biến cà phê nhân, (công suất thiết kế 1,5 triệu tấn, công suất thực tế đạt 83,6%); 160 cơ sở chế biến cà phê rang xay (công suất thiết kế 51,7 nghìn tấn sản phẩm/năm).
Bên cạnh đó, có 8 cơ sở chế biến cà phê hòa tan và 11 cơ sở chế biến cà phê phối trộn có công suất thiết kế gần 180 nghìn tấn sản phẩm/năm, công suất thực tế đạt trên 80% đến 97,9%
Tổng công suất của 276 cơ sở chế biến nói trên gần 1,8 triệu tấn.
Cà phê bột của Trung Nguyên, cà phê hòa tan Vinacafe, Trung Nguyên không những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn được hoan nghênh ở nhiều thị trường trong khu vực, đồng thời đã bước đầu xây dựng được thương hiệu cà phê Việt.
Với sự hỗ trợ tích cực của các Bộ, ngành trong nâng cao năng lực chế biến, mở rộng thị trường, tổ chức lại xuất khẩu... cùng sự chủ động, nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác quảng bá, marketing, định vị thương hiệu đã giúp cà phê rang xay và hòa tan xuất khẩu đã chiếm 9,1% thị phần (đứng thứ 5, sau Brazil, Indonesia, Malaysia và Ấn Độ).