Xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu Việt Nam

PGS.TS. HOÀNG VĂN THÀNH (Trường Đại học Thương mại)

TÓM TẮT:

Những năm gần đây, Việt Nam luôn là một trong các quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu một số mặt hàng nông sản nhiệt đới như gạo, cà phê, tiêu, điều… Hiện nay, với việc gia nhập WTO, nông sản của Việt Nam có nhiều cơ hội để quảng bá và đưa ra thị trường thế giới, song thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các thương hiệu nông sản của các nước khác.

Từ khóa: Nông sản, xuất khẩu nông sản, thương hiệu, thương hiệu nông sản.

I. Đặt vấn đề

1. Thương hiệu

Theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO1 (World Itellectual Property Organization), thương hiệu là một dấu hiệu đặc biệt (hữu hình hoặc vô hình) để nhận biết một sản phầm, một hàng hóa hay một dịch vụ nào đó được sản xuất, cung cấp bởi một tổ chức hay một cá nhân.

Theo Hiệp hội nhãn hiệu thương mại quốc tế ITA (International Trademark Association), thương hiệu bao gồm những từ ngữ, tên gọi, biểu tượng hay bất kì sự kết hợp nào giữa các yếu tố trên được dùng trong thương mại để xác định và phân biệt hàng hóa của các nhà sản xuất hoặc người bán với nhau và để xác định nguồn gốc của hàng hóa đó. Thương hiệu gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất và chỉ được ủy quyền cho nhà đại diện thương mại chính thức. Chúng ta cần phân biệt thương hiệu với nhãn hiệu hàng hóa.

Như vậy, từ các định nghĩa trên ta có thể đưa ra khái niệm: Thương hiệu là tập hợp các dấu hiệu (hữu hình hoặc vô hình) để phân biệt các loại hàng hóa và phải để lại một dấu ấn đặc biệt trong tâm trí của khách hàng.

2. Hàng nông sản

Hàng nông sản - cùng với mặt hàng thủy sản là một trong những nguồn lương thực thực phẩm quan trọng của thế giới. Các mặt hàng nông sản rất phong phú và đa dạng. Tùy vào khu vực địa lý, khí hậu hay văn hóa, mỗi quốc gia thường có các mặt hàng nông sản đặc trưng, nổi tiếng thế giới. Ví dụ, trong khi Brazil nổi tiếng về cà phê, Chilê nổi tiếng về ớt, Pháp nổi tiếng về rượu nho, thì Thái Lan lại được biết đến với tư cách là quốc gia xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Việt Nam - quốc gia xuất khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới, với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm rất đặc trưng và nổi tiếng với các loại rau quả tươi ngon quanh năm như nhãn, vải, xoài, na, bưởi, sầu riêng,… Ở các Tiểu vương quốc Ả Rập, mặt hàng nông sản nhập khẩu được ưa chuộng là các loại gia vị như hồ tiêu; ở châu Phi là gạo; ở Trung Quốc là rau xanh và hoa quả tươi hoặc các sản phẩm nông sản mới qua sơ chế. Tuy nhiên ở các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, các mặt hàng nông sản được bán chủ yếu đều đã qua chế biến.

Nông sản được xếp vào nhóm các mặt hàng nhạy cảm và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của tất cả quốc gia trên thế giới. Đặc biệt khi vấn đề an ninh lương thực thế giới ngày càng trở nên trầm trọng, không chỉ những quốc gia chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm như Ai Cập hay các nước châu Phi mà kể cả những quốc gia có nền nông nghiệp phát triển như Thái Lan, Mỹ cũng đều quan tâm, chú trọng vào việc phát triển nông nghiệp nói chung và nhóm các mặt hàng nông sản nói riêng. Trong chiến lược phát triển kinh tế, các quốc gia luôn cố gắng tự chủ hơn để đảm bảo nhu cầu về lương thực thực phẩm mà trước hết là đảm bảo nhu cầu trong nước.

II. Thực trạng sản xuất, xuất khẩu nông sản của Việt Nam

1. Tình hình sản xuất, xuất khẩu

Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng về các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Chính lợi thế về điều kiện khí hậu, đất đai và hơn 70% dân số làm nông nghiệp đã tạo nên sự đa dạng trong các sản phẩm nông nghiệp.

Nông sản của Việt Nam có rất nhiều loại khác nhau nhưng có thể chia thành 3 nhóm hàng chính với các nông sản tiêu biểu:

Nhóm hàng lương thực, bao gồm: Gạo, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương…

Nhóm hàng rau quả, bao gồm: Các loại rau và quả

Nhóm hàng nông sản khác, bao gồm: Chè, cà phê, tiêu điều…

Hiện nay, diện tích đất canh tác nông nghiệp đang được mở rộng để đảm bảo sản xuất đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Việc mở rộng đất canh tác, cùng với ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp đã đem lại nhiều kết quả to lớn. Ngành Nông nghiệp góp phần nâng cao tổng sản phẩm quốc nội (25%GDP), trong đó 14-15% giá trị sản phẩm nông nghiệp được tạo ra bởi ngành sản xuất rau quả và chiếm tới 1/3 tỉ trọng xuất khẩu. Giá trị sản xuất nông nghiệp theo các năm có xu hướng tăng dần.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê về diện tích và sản lượng lương thực, năm 2016 xuất khẩu nông sản của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi so với năm 2015. Nhìn chung, năm 2016 các mặt hàng xuất khẩu chính đều có xu hướng tăng lên so với năm 2015, trừ mặt hàng gạo, sắn. Tính trung bình đến hết tháng 11/2016, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt 29,1 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015.

Cà phê, tiêu, rau quả và điều là bốn mặt hàng có mức tăng xuất khẩu mạnh nhất trong năm vừa qua. Xuất khẩu cà phê 11 tháng đầu năm 2016 đạt 1,6 triệu tấn và 2,98 tỷ USD, tăng 36,1% về khối lượng và tăng 24,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Xuất khẩu tiêu 11 tháng đầu năm 2016 đạt 170 nghìn tấn và 1,37 tỷ USD, tăng 36,7% về khối lượng và tăng 15,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Rau quả tiếp tục có sự tăng trưởng tốt với giá trị xuất khẩu rau quả 10 tháng năm 2016 đạt 6,2 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm 2015. Xuất khẩu hạt điều 11 tháng năm 2016 đạt 320 nghìn tấn và 2,59 tỷ USD, tăng 6,2% về khối lượng và tăng 18,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.

Một số mặt hàng cây trồng khác như cao su, chè, rau quả cũng có sự tăng trưởng xuất khẩu dù thấp hơn so với cà phê, tiêu, điều. Xuất khẩu cao su 11 tháng năm 2016 đạt 1,1 triệu tấn và 1,43 tỷ USD, tăng 12,3% về khối lượng và tăng 4,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Xuất khẩu chè 11 tháng năm 2016 đạt 118 nghìn tấn và 197 triệu USD, tăng 7,1% về khối lượng và tăng 4,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015.

Kim ngạch xuất khẩu thịt lợn và lợn sống dù chưa lớn nhưng có sự tăng trưởng mạnh trong năm 2016. 10 tháng năm 2016 trị giá xuất khẩu thịt lợn đạt 74,1 triệu USD, tăng 50,6% so với cùng kỳ năm 2015; xuất khẩu lợn sống đạt 107,0 triệu USD, tăng mạnh so với 15,5 triệu USD năm 2015.

Thủy sản là mặt hàng có sự tăng trưởng trung bình trong năm 2016. Xuất khẩu thủy sản 11 tháng năm 2016 đạt 6,4 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2015. Tôm là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, với kim ngạch đạt 2,58 tỷ USD, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2015 và chiếm tỷ trọng kim ngạch 44%. Tiếp đến là cá tra, với kim ngạch đạt 1,39 tỷ USD, chiếm 24%. Các mặt hàng xuất khẩu thủy sản lớn khác lần lượt là: cá ngừ (354,7 triệu USD, chiếm 7%), mực, bạch tuộc (298,3 triệu USD, chiếm 5,8%).

Cùng với các mặt hàng nông sản, thủy sản thì giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản trong 11 tháng 2016 cũng tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2015 (tăng 0,8%), đạt 6,5 tỷ USD.

Các mặt hàng lương thực xuất khẩu bao gồm gạo, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương…, trong đó gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ đạo. Hiện nay Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan. Gạo của Việt Nam đã có mặt tại hơn 80 nước trên thế giới, trong đó lượng gạo xuất khẩu sang thị trường châu Á là lớn nhất, chiếm trên 50% tổng lượng gạo xuất khẩu, tương đương với 60% kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là châu Phi với trên 25% tổng lượng gạo xuất khẩu.

Trong xu thế giảm liên tiếp trong những tháng qua, xuất khẩu gạo 11 tháng năm 2016 ước đạt 4,54 triệu tấn và 2 tỷ USD, giảm 25% về khối lượng và giảm 20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc hiện đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam: chiếm 36% thị phần trong 10 tháng năm 2016.

Indonesia, Philippin tiếp tục giảm nhập khẩu gạo từ Việt Nam, trong khi đó Gana trở thành thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam với 11,5% thị phần.

2. Những khó khăn trong xuất khẩu hàng nông sản

Các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường EU và các thị trường khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc do gặp phải khá nhiều rào cản, đặc biệt là rào cản về kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm. Ví dụ, hồ tiêu Việt Nam hiện nay đang phát triển thiếu bền vững do cây hồ tiêu của Việt Nam chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, dễ bị nhiễm độc nấm

Phytopthora phải có nhãn mác thể hiện nguồn gốc, cân nặng, kích thước và thành phần cấu tạo của sản phẩm để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

Thêm vào đó, hàng nông sản Việt Nam lại chưa có tên tuổi, chưa được người tiêu dùng nước ngoài biết đến. Như vậy, việc xuất khẩu những sản phẩm thô hoặc mới qua sơ chế không những làm giảm giá trị của các mặt hàng nông sản, không tương xứng với tiềm năng và thế mạnh về sản xuất nông nghiệp của đất nước mà còn làm mất đi thương hiệu của hàng nông sản Việt Nam ngay từ khi chưa đến được tay người tiêu dùng.

3. Sức cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam

Năm 2008, nền kinh tế toàn cầu lún sâu vào khủng hoảng, thương mại suy giảm nghiêm trọng, song thương mại nông sản của Việt Nam vẫn tăng mạnh so với các giai đoạn trước đó. Mức tăng trưởng kim ngạch chủ yếu do đóng góp của yếu tố tăng giá một số mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế.

Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khu vực tiêu thụ truyền thống như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi với một số mặt hàng chủ đạo như gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả, chè, lạc…

Tuy nhiên, sức cạnh tranh của ngay cả những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực cũng còn thấp kém. Chính điều này đã làm hạn chế hiệu quả xuất khẩu nông sản, hạn chế khả năng thâm nhập và củng cố vị thế trên thị trường thế giới. Sức cạnh tranh thấp kém của nông sản là thách thức lớn nhất với nông nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, vấn đề xây dựng thương hiệu cho nông sản càng trở nên cấp thiết, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

4. Thế mạnh của Việt Nam trong xuất khẩu nông sản

Theo Tiến sỹ Trần Công Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (IPSARD), thời gian vừa qua, Việt Nam đã hội nhập rất nhanh, rộng và sâu với thế giới. Hàng loạt các FTAs thế hệ mới đã được ký kết và tạo cơ hội thuận lợi cho nông sản Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Đây là một trong những lợi ích lớn nhất của hội nhập. Thời gian qua chúng ta cũng đã tận dụng khá tốt cơ hội này để tăng cường khai thác thị trường cũ, phát triển thị trường mới.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương cùng với các ban ngành khác liên tục có những đàm phán nhằm khơi thông thị trường đưa sản phẩm trong nước ra nước ngoài, rất nhiều chương trình xúc tiến thương mại tại Việt Nam và nước ngoài được thực hiện. Nhờ đó mà xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng nhanh chóng từ khoảng 20 tỷ USD năm 2010 lên tới trên 30 tỷ USD như hiện nay. Việt Nam đã xuất khẩu nông sản đi trên 200 nước trên thế giới, trong đó 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là lúa gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả, sắn, tôm, cá tra, sản phẩm gỗ. Nhiều năm qua, nông lâm thủy sản là ngành có cán cân thương mại luôn dương và đóng góp lớn vào cán cân thương mại của toàn nền kinh tế.

Mặc dù có sự tăng trưởng tốt nhưng có thể nói chúng ta vẫn chưa tận dụng tốt các cơ hội nhằm đẩy mạnh kim ngạch và lượng xuất khẩu nông lâm thủy sản hơn nữa ra thị trường quốc tế. Có nhiều lý do, trong đó phải kể đến một số lý do sau:

Thứ nhất, chủ yếu chúng ta vẫn xuất khẩu thô hoặc sơ chế (gạo, cà phê, cao su, chè, sắn). Gần đây, xuất khẩu cà phê tinh (chế biến) tăng chậm, vẫn chủ yếu xuất khẩu cà phê thô. Chính vì thế giá trị xuất khẩu của chúng ta thấp dù lượng xuất khẩu khá cao.

Thứ hai, nhìn chung chất lượng nông sản của chúng ta còn thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Đây cũng chính là lý do mà giá xuất khẩu nông sản của chúng ta thường xuyên thấp hơn 20-30% so với các nước khác trên thế giới. Chất lượng thấp còn ảnh hưởng rất lớn tới uy tín hàng Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ ba, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng tốt các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước nhập khẩu. Chất lượng thấp cộng với việc không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm làm cho các nông sản xuất khẩu của Việt Nam không vượt được rào cản kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước và bị trả về, có nhiều doanh nghiệp còn bị phạt hợp đồng. Đây là vấn đề rất đáng tiếc, gây khó khăn cho xuất khẩu nông sản Việt Nam sang các thị trường lớn với giá cao. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2015 có 40 lô hàng bị trả về trên tổng số 181 lô hàng thủy sản bị cảnh báo về an toàn thực phẩm (gấp 3 lần năm 2014). Từ đầu năm đến nay, có 542 lô hàng thủy sản của 110 công ty Việt Nam bị 38 quốc gia nhập khẩu trả về, trong đó có doanh nghiệp bị trả về tới 70 lô hàng. Trong 6 tháng năm 2016 đã có 16 lô hàng xuất khẩu vào EU bị cảnh báo nhiễm kháng sinh, hóa chất cấm. Việt Nam hiện “đứng đầu bảng” về số lô hàng vi phạm an toàn thực phẩm, trong số các quốc gia xuất khẩu vào EU.

Không chỉ thủy sản mà lúa gạo xuất khẩu năm 2016 cũng ghi nhận nhiều lô hàng xuất khẩu bị trả về từ thị trường Hoa Kỳ. Theo Cục Bảo vệ thực vật, đến hết tháng 10/2016 có 29 lô gạo xuất khẩu bị Hoa Kỳ trả về. Hầu hết số gạo bị trả về do vi phạm quy cách đóng gói hoặc doanh nghiệp vi phạm hợp đồng đã ký kết. Có 6/29 lô hàng bị trả về do chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Các mặt hàng khác như trái cây, tiêu cũng đang trong tình trạng báo động về chất lượng đặc biệt là tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật.

Thứ tư, công tác xây dựng, phát triển thương hiệu, truy xuất nguồn gốc xúc tiến thương mại còn yếu.

Chúng ta có nhiều sản phẩm đặc sản, đặc trưng và là thế mạnh của Việt Nam như gạo, cà phê, tiêu…, nhưng lại không có thương hiệu quốc gia cho các mặt hàng này. Điều này làm giảm vị thế của các nông sản Việt Nam ở các thị trường nhập khẩu và hạn chế việc đưa sản phẩm mang thương hiệu của Việt Nam ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, việc xây dựng truy xuất nguồn gốc còn rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu bắt buộc của nhiều nước châu Âu đối với các loại nông sản xuất khẩu vào thị trường này.

III. Một số giải pháp nhằm xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu của Việt Nam

Để đạt được mục tiêu xây dựng thương hiệu cho những nông sản xuất khẩu nổi tiếng, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản ra thị trường quốc tế, trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

1. Thực hiện tốt tái cơ cấu sản xuất các ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ lực để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng tại các thị trường trọng điểm, vượt qua được hàng rào thuế và phi thuế theo các cam kết. Trong đó tập trung vào 3 việc sau:

Tổ chức lại sản xuất trong đó đồng ruộng được tích tụ theo quy mô lớn, nông dân được tổ chức lại thành các hợp tác xã, tổ hợp tác hoạt động hiệu quả, thu hút doanh nghiệp vào xây dựng chuỗi giá trị liên kết với hợp tác xã, tổ hợp tác.

Tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh để cạnh tranh hiệu quả với hàng nhập khẩu tại thị trường trong nước và đáp ứng yêu cầu hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu.

Tổ chức các hoạt động dịch vụ hậu cần, kênh phân phối để xúc tiến thương mại và phát triển thị trường hiệu quả cho nông sản xuất khẩu. Từng bước đưa nông sản Việt Nam vào chuỗi thị trường toàn cầu.

2. Nâng cao năng lực hội nhập cho cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hiệp hội, hợp tác xã và nhận thức của hộ nông dân, trong đó tập trung vào:

- Thông tin đầy đủ và tổ chức tập huấn những nội dung mới của các FTA để các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, HTX, hộ nông dân kịp thời nắm bắt và điều chỉnh chính sách, quy định cho phù hợp với những nội dung cam kết mới.

- Xây dựng tổ chức lực lượng hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý, giải quyết tranh chấp, phòng chống rủi ro khi tham gia thị trường quốc tế.

- Xây dựng bộ máy và tăng cường năng lực của đội ngũ thanh tra kỹ thuật, xử lý nghiêm các hành vi gian lận thương mại, đầu cơ tăng giá, thao túng thị trường, vi phạm Luật Cạnh tranh.

- Hoàn thiện bộ máy và tăng cường năng lực kiểm dịch, đảm bảo an toàn sinh học, vệ sinh dịch tễ… đối với hàng xuất nhập khẩu, trong đó đặc biệt chú trọng các sản phẩm chăn nuôi, rau quả.

- Đổi mới vai trò, nâng cao năng lực của các hiệp hội nhất là trong việc tư vấn chính sách, xúc tiến thương mại, đào tạo, cung cấp dịch vụ, điều phối hoạt động thương mại nông sản.

3. Hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách; nâng cao năng lực thực thi pháp luật và các quy định khác theo các cam kết quốc tế khác.

4. Nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động hội nhập.

Nghiên cứu, dự báo tác động cần phải thực hiện trong cả quá trình đàm phán và thực hiện các FTA, để cung cấp căn cứ cho quá trình đàm phán, đồng thời chỉ ra những rủi ro, ảnh hưởng có thể đối với ngành nông nghiệp nói riêng, nền kinh tế Việt Nam nói chung khi tham gia các FTA.

5. Xây dựng chiến lược hội nhập cho một số ngành hàng chủ lực như lúa gạo, cà phê, thủy sản, gỗ, cao su… để có định hướng rõ ràng về thị trường, sản phẩm và các chương trình hành động cụ thể cho từng ngành hàng.

IV. Kết luận

Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu ngày càng trở nên cấp thiết với một quốc gia giàu truyền thống nông nghiệp như Việt Nam. Bài viết “Xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu Việt Nam” đã đưa ra một số nội dung cơ bản về cơ sở lý luận và giải pháp xây dựng, phát triển thương hiệu cho nông sản xuất khẩu dựa trên thực tế xuất khẩu nông sản Việt Nam trong thời gian gần đây.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. PGS.TS Vũ Chí Lộc, ThS. Lê Thị Thu Hà - “Xây dựng và phát triển thương

hiệu”, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, 2007.

2. Jack Trout - “Định vị thương hiệu”, Nhà xuất bản Thống kê, 2004.

3. Ronald J. Alsop - “18 quy luật bất biến phát triển danh tiếng thương hiệu”,

Nhà xuất bản Trẻ, 2008.

4. Luật Sở hữu trí tuệ 2005.

BUILDING AND IMPROVING BRANDS FOR

VIETNAMESE AGRICULTURAL PRODUCTS

Assoc.Prof. Ph.D. HOANG VAN THANH

Vietnam Commercial University

ABSTRACT:

In recent years, Vietnam has become one of top exporters of tropical agricultural products, such as rice, coffee and cashsew. By joining into the World Trade Organization (WTO), Vietnam has more opportunities to promote and export its agricultural products. However, agricultural exports of Vietnam have competed fiercely against foreign agricultural brands.

Keywords: Agricultural products, exports of agricultural products, brand, brand of agricultural products.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 02 tháng 02/2017 tại đây