Số liệu thống kê mới nhất từ Bộ Công Thương cho biết, mặc dù chịu ảnh hưởng bởi làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 3, tình trạng thiếu container rỗng, chi phí vận chuyển tăng cao… nhưng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong Quý I/2021 vẫn ghi nhận mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2020, ước tính đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước.
Ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã có một số chia sẻ với phóng viên về các kết quả đã đạt được trong Quý đầu năm.
Phóng viên: Thưa ông, các cơ quan chức năng vừa công bố về tình hình xuất nhập khẩu Quý đầu năm với những kết quả rất khả quan. Xin ông cho biết điều gì đã giúp cho Việt Nam có được kết quả như vậy?
Ông Trần Thanh Hải: Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong Quý I/2021 ghi nhận mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2020, ước tính đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay thế giới vẫn đang ở trong tình trạng chịu tác động rất nặng nề của dịch bệnh Covid-19, cộng thêm những vấn đề khác như việc thiếu container rỗng, tăng giá cước tàu biển tàu biển và gần đây nhất là sự cố của kênh đào Suez… thì việc xuất nhập khẩu đạt được giá trị như vậy là nhờ những nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp cộng với sự hỗ trợ và đồng hành của các bộ, ngành, địa phương.
Ngoài ra, cũng cần ghi nhận việc tận dụng tốt các ưu thế của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - khi Việt Nam đã có các hiệp định thương mại tự do với EU (EVFTA), Hiệp định tự do với Vương Quốc Anh (UKVFTA), Hiệp định CPTPP và sắp tới là với RCEP.
Phóng viên: Vậy các doanh nghiệp của chúng ta đã khai thác các hiệp định thương mại tự do (FTA) như thế nào trong Quý I/2021?
Ông Trần Thanh Hải: Với thị trường EU, một số các mặt hàng của Việt Nam hiện vẫn được hưởng quy chế về GSP (hệ thống ưu đãi phổ cập) là những ưu đãi mà EU đã dành cho các sản phẩm của Việt Nam nhiều năm.
Tuy nhiên, về lâu dài việc chúng ta tận dụng các cơ hội từ Hiệp định EVFTA mới là một ưu đãi mang tính chất bền vững và bình đẳng. Đặc biệt là nhiều mặt hàng Việt Nam có lợi thế, chúng ta cũng sẽ có được các ưu thế về việc tận dụng các nguồn gốc xuất xứ cộng gộp trong EVFTA.
Ví dụ, đối với mặt hàng dệt may Việt Nam có thể cộng gộp nguồn nguyên liệu vải Hàn Quốc, đây cũng là những thuận lợi mà chỉ có Hiệp định EVFTA mới có thể đem lại.
Việc các doanh nghiệp có thể tận dụng được các lợi ích của hiệp định trước hết chính là từ việc chúng ta hiểu rõ hiệp định có thể mang lại những thuận lợi gì trong lĩnh vực của mình, mặt hàng của mình... qua đó có thể thay đổi quy trình sản xuất, nguồn cung nguyên liệu để đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ hàng hóa và có thể được hưởng mức thuế thấp mà hiệp định mang lại.
Phóng viên: Xin ông cho biết cụ thể các hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp trong quý 1 đã có những đóng góp như thế nào?
Ông Trần Thanh Hải: Có thể thấy tăng trưởng xuất nhập khẩu của Quý I đạt được những con số rất khả quan. Tuy nhiên, nếu nhìn vào từng ngành cụ thể thì kết quả đó cũng có những sự khác biệt.
Hiện nay, những mặt hàng như hàng điện tử, điện gia dụng, đồ gỗ nội thất là những mặt hàng đang được hưởng lợi cũng như có tác động tương đối tích cực do nhu cầu tăng cao ở các thị trường khu vực châu Âu và Bắc Mỹ.
Tuy nhiên những ngành hàng như dệt may, da giày thì có thể nói khó khăn vẫn còn đang rất lớn, mà đặc biệt là những tác động của việc đứt gãy chuỗi cung ứng. Nó thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, không phải chỉ ở nguồn cung mà còn tác động ngay trong cả các chuỗi vận hành của các chuỗi hoạt động logistics.
Điều đó cũng cho thấy tăng trưởng về xuất nhập khẩu nói chung, trong đó có nhóm ngành hàng công nghiệp vẫn đang có những yếu tố khác biệt mà chúng ta cần phải xem xét kỹ và có những biện pháp hỗ trợ kịp thời cho những ngành hàng chịu tác động lớn của dịch bệnh.
Phóng viên: Từ các kết quả của hoạt động xuất nhập khẩu Quý đầu năm, ông có những khuyến cáo cụ thể gì tới doanh nghiệp cũng như tới hoạt động xuất nhập khẩu chung để chúng ta có thể có đạt được giá trị xuất nhập khẩu như kế hoạch đã đặt ra trong năm 2021?
Ông Trần Thanh Hải: Hoạt động thương mại trong bối cảnh hiện nay chịu tác động của rất nhiều các yếu tố bất ổn đến từ các biến động về mặt chính trị xã hội cho đến dịch bệnh, thiên tai, môi trường.
Chính vì vậy việc nâng cao khả năng thích ứng và chịu đựng trước những tác động bất lợi của thị trường đến từ nhiều nguồn khác nhau là một yếu tố hết sức thiết yếu đối với các doanh nghiệp.
Năm 2020, các doanh nghiệp Việt Nam đã trải qua những biến động rất lớn và cũng đã thể hiện được khả năng của mình trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 lan truyền trên khắp thế giới. Dù vậy, đấy chỉ là một trong những yếu tố nguy cơ bất ổn có thể tác động xấu đến hoạt động kinh doanh.
Từ bài học của dịch Covid-19, theo tôi các doanh nghiệp cũng cần phải lên phương án chủ động hơn nữa, toàn diện hơn trước những yếu tố bất ổn khác nhau để có thể giảm thiểu được thiệt hại cũng như vươn lên và nắm bắt được những cơ hội từ các yếu tố nguy cơ như vậy.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!.