Thông tin tại Tọa đàm "Gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP" do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 01/12/2022, ông Ngô Chung Khanh – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết: Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tỷ lệ các doanh nghiệp hiểu/hiểu rõ về Hiệp định CPTPP đã tăng đáng kể. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta sang CPTPP nói chung và đặc biệt là sang 3 thị trường FTA mới, thị trường chúng ta chưa có FTA khi ký CPTPP là Canada, Mexico, Peru tăng trưởng mạnh.
"Thặng dư thương mại từ riêng hai thị trường Canada và Mexico là một con số rất đáng kể. Trong khi theo số liệu xuất khẩu sang thị trường Peru, có thời điểm chúng ta tăng trưởng đến ba chữ số chứ không phải hai chữ số. Điều này cho thấy rằng nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm, để ý việc xuất khẩu sang các thị trường mới này", ông Khanh cho biết.
Các thị trường mới trong Hiệp định CPTPP có tỷ lệ tận dụng ưu đãi cao
Bà Đỗ Thị Thu Hương - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Việc tận dụng ưu đãi của Hiệp định CPTPP có những điểm đặc thù so với các hiệp định FTA khác khi mà đối tác chưa có FTA có sẵn với Việt Nam.
Nếu nhìn vào con số tỷ lệ sử dụng chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi trong CPTPP chiếm khoảng 6,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường trong CPTPP có vẻ thấp nhưng nếu chỉ tính trên kim ngạch sang 06 nước thành viên đã thực thi CPTPP tính đến thời điểm khoảng tháng 8/2021 trở về trước, tỷ lệ sẽ cao hơn.
Trong thực tế, trong số 10 nước đối tác của Việt Nam trong CPTPP thì 07 nước đã có FTA với Việt Nam trước đó, chỉ có 03 nước là đối tác mới và thực chất cơ hội thị trường mới chủ yếu của CPTPP đem lại là ba nước này bao gồm: Canada, Mexico và Peru, trong đó Peru mới thực thi Hiệp định từ cuối năm 2021 trở lại đây.
Với những thị trường đã có FTA rồi, vì đã thực hiện từ lâu và quen thuộc, trong lộ trình giảm thuế đã về 0% nên nhiều doanh nghiệp sẽ lựa chọn sử dụng ưu đãi theo những hiệp định cũ và quy tắc xuất xứ với với những hiệp định trước đây hơn.
"Nếu chỉ tính riêng thị trường Canada và Mexico thì tỷ lệ sử dụng ưu đãi này cao hơn hẳn, khoảng xấp xỉ 24% và con số này cao hơn tỷ lệ sử dụng ưu đãi trong Hiệp định với EU (EVFTA), cũng như tỷ lệ sử dụng ưu đãi trong UKVFTA", bà Hương chia sẻ.
Chưa kể đến việc ngay tại hai thị trường mới có FTA, các doanh nghiệp cũng được lựa chọn sử dụng theo C/O ưu đãi của Hiệp định CPTPP hay thuế MFN (cơ chế thuế tối huệ quốc) mà các nước đang áp dụng, hoặc cơ chế GSP (thuế quan ưu đãi phổ cập) mà Canada vẫn duy trì cho Việt Nam. Những yếu tố này dẫn đến tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi của CPTPP sang tất cả các thị trường trong khối nói chung không cao.
Tuy nhiên, theo bà Đỗ Thị Thu Hương, đứng về góc độ mặt hàng, nếu tính trên tổng thể chung của khối CPTPP bao gồm cả những nước đã thực thi, những nước chưa thực thi, bao gồm cả những nước đã có FTA và những nước chưa có FTA khác trước đó thì nhiều hóm hàng xuất khẩu có tỷ lệ sử dụng C/O tốt như: Giày dép chiếm khoảng 43%, xơ sợi khoảng 33%, sắt thép và các sản phẩm sắt, thép 76%, điện thoại và linh kiện điện thoại là 13% và thủy sản là 6%...
Với riêng Canada - thị trường mới lần đầu có FTA với Việt Nam thì có những nhóm hàng tỷ lệ sử dụng C/O rất cao. Theo số liệu từ thống kê của Canada về hàng hóa thực nhập vào Canada từ Việt Nam được hưởng thuế ưu đãi theo CPTPP thì gốm sứ có tỷ lệ sử dụng 95%, đồ gia dụng, kim loại 86%, nông sản chế biến 73%, giày dép xấp xỉ 70%, sản phẩm cao su cũng là 63%. Tiếp đó là những nhóm đồ thủ công mỹ nghệ có tỷ lệ sử dụng C/O CPTPP 48%; hàng nội thất gỗ khoảng 38%;các sản phẩm giấy là 21%; hàng dệt may khoảng trên 10%...
Tuy nhiên, bà Hương cho biết, xuất khẩu sang Canada, Mexico mặc dù tăng giá trị nhưng tỷ trọng của hai thị trường này còn thấp. Những mặt hàng có tỷ lệ tận dụng tốt thì giá trị chưa cao, còn những mặt hàng xuất khẩu giá trị cao thì tỷ lệ lại tận dụng lại tương đối khiêm tốn.
Từ góc độ địa phương, ông Trần Thế Phương, Trưởng phòng Quản lý Thương mại, Sở Công Thương Bình Dương thông tin, trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã được hưởng chính sách ưu đãi xuất xứ khi xuất khẩu vào thị trường CPTPP.
Xuất khẩu sang thị trường các nước thuộc khối CPTPP trong 10 tháng 2022 đạt khoảng 2,9 tỷ USD, tăng 11,02% so với cùng kỳ và chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Theo ông Phương, hầu hết các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trên địa bàn tỉnh đều có nhận thức và hiểu biết nhất định về cam kết và thị trường các nước CPTPP, đặc biệt là các cam kết cắt giảm thuế quan, các quy định để được cấp xuất xứ hàng hóa C/O được hưởng các ưu đãi thuế quan.
Tuy nhiên, do đặc thù các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của tỉnh còn mang nặng hình thức gia công, chế biến, đặc biệt là hai ngành dệt may, da giày nên việc tận dụng nguyên vật liệu trong nước và các nước thuộc khối CPTPP còn hạn chế, tuy có tăng dần theo từng năm nhưng vẫn chưa đạt theo kỳ vọng.
Trong đó nguyên nhân chính là do các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Các hoạt động kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất của tỉnh với các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nước và các nước thuộc CPTPP chưa nhiều và chưa thường xuyên. Đây cũng là nút thắt trong việc nâng cao tỷ lệ tận dụng C/O của các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp vẫn khó trong đầu tư để đáp ứng quy tắc xuất xứ
Theo bà Đỗ Thị Thu Hương, trong các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường các nước thành viên CPTPP, dệt may là nhóm hàng có tỷ lệ sử dụng C/O CPTPP thấp và gần như không tăng trong ba năm vừa qua.
Chia sẻ nhận định này, ông Nguyễn Xuân Dương - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng công ty May Hưng Yên (Hugaco) cho biết 3 năm qua, tỷ lệ doanh nghiệp dệt may sử dụng C/O CPTPP để hưởng ưu đãi thuế quan rất thấp.
Trước hết bởi vì trong số các nước đã thực thi Hiệp định CPTPP thì chúng ta hầu như đã có hiệp định song phương hoặc đa phương trước đó như Nhật Bản, New Zealand... thậm chí điều kiện để hưởng thuế suất còn 0% giữa ta với Nhật Bản còn dễ hơn so với CPTPP. Bên cạnh đó, với 3 nước thành viên mới lần đầu có FTA với chúng ta thì dệt may của Mexico đã là một trong những cường quốc sản xuất và xuất khẩu dệt may tương đối tốt, do đó cơ hội ở những thị trường đó với dệt may Việt Nam chủ yếu chỉ có ở một số mã xơ sợi.
Tuy nhiên, ông Dương cũng chia sẻ khó khăn của ngành dệt may nói chung, Tổng công ty May Hưng Yên nói riêng vẫn là khó đáp ứng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (yarn-forward) của Hiệp định CPTPP.
Trong khi xơ sợi Việt Nam đang có năng lực sản xuất tương đối tốt thì riêng đối với ngành may, ngành dệt trong nước vẫn nhập khẩu nguyên phụ liệu nhiều từ thị trường ngoài khối CPTPP, chưa thể cung cấp được những nguyên liệu đầy đủ theo quy tắc xuất xứ "từ sợi trở đi" để được hưởng C/O ưu đãi của Hiệp định CPTPP.
Bài toán đặt ra là nếu tập trung đầu tư để chủ động nguồn cung nguyên phụ liệu thì ngành may có thể đảm bảo đáp ứng quy tắc xuất xứ của CPTPP, từ đó gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi, tăng xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên Hiệp định.
Ông Nguyễn Xuân Dương cho biết, để các doanh nghiệp dệt may trong nước đầu tư với mong muốn tăng dần tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu lên là vấn đề khó nhiều mặt, đó là vấn đề vốn, công nghệ, kỹ thuật... "Để đầu tư, làm được ngành vải có thể nói rất lớn, chúng ta không những thiếu về vốn, kỹ thuật mà chúng ta thiếu chính thị trường, làm để bán cho ai. Hiện nay một số doanh nghiệp dệt may trong nước đã làm được nhưng thực ra mới sử dụng khoảng 30% công suất".
Bên cạnh suất đầu tư lớn, hiện nay các doanh nghiệp khi đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam thì còn vấp phải những khó khăn về đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường, nhất là hệ thống xử lý nước thải từ các dây chuyền dệt-nhuộm-hoàn tất phải đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn, quy định của pháp luật Nhà nước về bảo vệ môi trường và các quy định của địa phương nơi đặt nhà máy sản xuất.
Hàng hóa sản xuất trong quá trình bảo vệ môi trường giúp doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh hơn
Chia sẻ với những khó khăn của đại diện doanh nghiệp dệt may trong quá trình kinh doanh đầu tư, xuất khẩu và đặc biệt là việc tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, ông Nguyễn Thi, Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta càng ngày càng được nâng cao và chặt chẽ hơn có nhiều lý do.
Trong đó, việc chúng ta thực hiện các cam kết toàn cầu về bảo vệ môi trường, bao gồm cả các hiệp định đa phương về môi trường và các hiệp định FTA thế hệ mới như CPTPP, ngoài các cam kết rất mạnh mẽ về đầu tư và thương mại thì cũng đưa ra yêu cầu rất cao về bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, bảo vệ đa dạng sinh thái.
Hiện nay, nhiều quốc gia là các thị trường nhập khẩu hàng hóa Việt Nam đều có xu hướng xanh hóa, hướng tới phát triển bền vững, đưa ra những cam kết về bảo vệ môi trường rất mạnh mẽ, công bằng, không có ngoại lệ và có sự minh bạch trong việc xây dựng cũng như triển khai để thực hiện việc bảo vệ môi trường một cách tốt nhất. Đặt trong bối cảnh toàn cầu như thế rõ ràng việc bảo vệ môi trường ảnh hưởng mạnh đến thương mại và đầu tư.
Liên quan đến quy chuẩn môi trường ở Việt Nam, ông Thi cho biết: Quy chuẩn môi trường Việt Nam trong thời gian qua đã được nâng lên, đặc biệt là quy chuẩn về dệt nhuộm là những quy chuẩn đã được xây dựng dựa trên việc học hỏi kinh nghiệm ở các nước, đặc biệt là các nước Châu Âu, Canada Hàn Quốc...
"Mức độ của chúng ta tiếp cận được với các quy chuẩn này và quy chuẩn này đảm bảo cho hàng hóa của chúng ta đưa ra thị trường được xác nhận rằng hàng hóa này đã được sản xuất trong quá trình bảo vệ môi trường tương đương tương ứng với thị trường mà nước đó nhập khẩu và như vậy giúp cho các nhà sản xuất có được một lợi thế trong việc gia nhập thị trường cũng như tăng sức cạnh tranh", ông Thi nhận định.
Kết nối nguồn lực để tận dụng các ưu đãi của Hiệp định
Đánh giá những khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp trong việc thực thi, tận dụng ưu đãi của CPTPP, các khách mời cho rằng, có nhiều cách để gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của Hiệp định CPTPP.
Để tận dụng tối đa ưu đãi trong Hiệp định CPTPP nói riêng và các FTA nói chung, bà Đỗ Thị Thu Hương khuyến nghị cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu và nắm bắt thông tin về mặt hàng và thị trường cũng như những ưu đãi thuế quan theo các hiệp định đem lại để biết được rằng cơ hội chúng ta ở đâu, ở thị trường nào và nhóm hàng nào. Quan tâm hơn đến những quy định về quy tắc xuất xứ, tìm hiểu xem làm thế nào để đáp ứng được quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan, trên cơ sở đó để xây dựng những cái chiến lược cũng như là kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Từ vấn đề đặt ra đối với trường hợp ngành may, bà Hương cho rằng các doanh nghiệp cần chú trọng kết nối với các nhà cung cấp nguyên vật liệu trong nước và trong khu vực CPTPP để có thể tăng khả năng đáp ứng được quy tắc xuất xứ của Hiệp định.
Liên quan đến việc tổ chức hệ thống cấp C/O hiện nay, Bộ Công Thương đang đẩy mạnh hai xu hướng.
Thứ nhất là xu hướng tăng cường chuyển giao cho doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ thay vì do các tổ chức cấp C/O thực hiện hiện nay. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến việc tự chứng nhận xuất xứ bởi sẽ đảm bảo được tính chủ động, tiết kiệm về mặt thời gian, chi phí cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Thứ hai chính là đẩy mạnh việc cấp C/O điện tử; đồng thời tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại sang các thị trường có FTA để tìm kiếm các cơ hội thị trường cho cộng đồng doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Xuân Dương chia sẻ, sau dịch Covid có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã và đang đến Việt Nam để tìm cơ hội đầu tư tiếp ở những mảng doanh nghiệp chúng ta đang thiếu hụt như có doanh nghiệp Nhật đầu tư sản xuất vải tại Việt Nam nhằm tận dụng một số quy định trong Hiệp định CPTPP chỉ yêu cầu sử dụng từ vải sản xuất tại tất cả các nước trong khối.
"Chúng ta cần tận dụng mọi khả năng để có thể áp dụng được, sử dụng được quy định của các hiệp định thương mại, không nhất thiết chỉ có một con đường duy nhất là đầu tư", ông Dương nhận định và đề xuất các doanh nghiệp có thể liên kết, hợp tác với tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài để tận dụng những tài nguyên có sẵn và những ưu đãi từ Hiệp định CPTPP, sản xuất nguyên phụ liệu để cung cấp cho chính doanh nghiệp đối tác. Ngoài chia sẻ về vấn đề kết nối với các thị trường khác, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng, học hỏi công nghệ sản xuất, kể cả công nghệ xử lý nước thải... của doanh nghiệp đối tác để nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
Theo ông Ngô Chung Khanh, để tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của CPTPP, đầu tiên cần nâng cao hơn nữa tỷ lệ này có thể lên được 30 - 40% hay nhiều hơn vì chúng ta càng tận dụng được nhiều thì chúng ta càng có lợi; trong đó cần phải tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu ở những mặt hàng có tỷ lệ tận dụng tốt và những mặt hàng có lợi thế từ thực thi FTA.
Với mục tiêu xanh hóa nền kinh tế, vấn đề bảo vệ môi trường và đáp ứng những cam kết của các FTA là yêu cầu tất yếu; tuy nhiên để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ cần phải có nguồn lực và có kế hoạch, lộ trình thay đổi, thích ứng dần với các yêu cầu. Do đó, theo ông Khanh, chúng ta nên cân bằng, bên cạnh bảo vệ môi trường nhưng có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp có điều kiện đáp ứng được vấn đề về bảo vệ môi trường.
Nhìn rộng hơn, theo ông Khanh, cần hướng đến mục tiêu tăng tính kết nối. Kết nối hệ sinh thái trong từng ngành từ cơ quan nhà nước, cơ quan, địa phương, doanh nghiệp, những nhà cung cấp, đối tác trong và ngoài nước. Mỗi chủ thể sẽ xác định được việc cần làm để giúp cho các chủ thể khác trong cái hệ sinh thái vận hành tốt hơn, qua đó giải quyết tốt hơn mọi vấn đề, trong đó có vấn đề tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của các hiệp định và đáp ứng các tiêu chuẩn, cam kết về bảo vệ môi trường.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Thi cho rằng, khi xây dựng và ban hành áp dụng quy định hay quy chuẩn kỹ thuật, đặc biệt là những quy chuẩn kỹ thuật cao hơn hoặc quy chuẩn mới cũng luôn tính tới việc đưa ra một lộ trình. Tuy nhiên lộ trình đó như thế nào hợp lý cần phải có sự tham khảo, lấy ý kiến của các doanh nghiệp, các hiệp hội, các đại diện doanh nghiệp để chúng ta đưa ra một quy chuẩn đảm bảo cho tính khả thi và cũng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được thuận lợi trong việc tuân thủ quy định.
Tuy nhiên, theo ông Thi, doanh nghiệp cần quan tâm đến việc chuyển đổi công nghệ sản xuất theo hướng xanh, sạch, bảo vệ môi trường để có thể tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi rất thấp từ quỹ bảo vệ môi trường, từ các ngân hàng thương mại. Ngoài ra cũng sẽ có ưu đãi đẩy mạnh thực hiện ưu đãi về bảo vệ môi trường, ưu đãi trong các hoạt động bảo vệ môi trường cũng như ưu đãi về đất đai, ưu đãi về hạ tầng các khu công nghiệp, hạ tầng liên quan đến xử lý chất thải tập trung cho doanh nghiệp tham gia vào quá trình này...
Chia sẻ cách làm của Bình Dương, ông Trần Thế Phương cho biết: Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng, sử dụng các xuất xứ ưu đãi C/O, thu hút đơn hàng xuất khẩu mới vào các nước CPTPP, Phòng Quản lý xuất nhập khẩu khu vực Bình Dương đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục cấp C/O để doanh nghiệp nhận được C/O trong thời gian sớm nhất, tạo điều kiện cho khách hàng của doanh nghiệp làm thủ tục nhập khẩu và được hưởng ưu đãi thuế nhanh nhất có thể tại các nước nhập khẩu, qua đó tạo nên lợi thế cạnh tranh về giá cả so với hàng hóa nhập khẩu từ các thị trường khác.