Những thách thức của giáo dục đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số đề xuất cho giáo dục đại học Việt Nam

THS. NINH THỊ HOÀNG LAN (Trường Đại học Thương mại)

TÓM TẮT:

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra và có những tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục đại học. Bài viết trình bày khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những thách thức mà cuộc cách mạng này đặt ra cho giáo dục đại học; từ đó đưa ra một số đề xuất gợi ý cho giáo dục đại học Việt Nam.

Từ khóa: cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giáo dục đại học, giáo dục đại học Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư đã được nhắc đến rất nhiều trong thời gian qua, đây là cuộc cách mạng mới nhất trong lĩnh vực công nghiệp. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng có những tác động không thể tránh khỏi với những lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Diễn đàn kinh tế thế giới đã mô tả cách mà cuộc CMCN lần thứ tư “định hình tương lai của giáo dục, giới tính và việc làm” [7], nhấn mạnh rằng, do sự tác động của CMCN lần thứ tư mà cần “đẩy mạnh việc đào tạo lại lực lượng lao động” [6]. Hobsbawm đã đánh giá rằng “CMCN không chỉ đơn thuần là sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà sự tăng trưởng kinh tế có được thông qua chuyển đổi kinh tế và xã hội [1].  

Vậy CMCN sẽ tác động đến giáo dục đại học (GDĐH) như thế nào? Những thách thức nào mà GDĐH sẽ phải đối mặt trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư?

2. Khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Thuật ngữ CMCN lần thứ tư bắt nguồn từ thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”, lần đầu tiên xuất hiện tại Hội chợ Công nghệ Hanover của Cộng hòa Liên bang Đức năm 2011. Sau đó, khái niệm này được sử dụng để đặt tên cho một chương trình hỗ trợ phát triển công nghệ cao của Chính phủ Đức. Năm 2016, Diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức một cuộc Hội thảo tại Davos, Thụy Sỹ với chủ đề “Làm chủ cuộc CMCN lần thứ tư”. Kể từ đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi cho đến nay.

Cuộc CMCN lần thứ tư được nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học [5]. Cuộc CMCN lần thứ tư được mô tả là kết quả của sự tích hợp và hiệu ứng kép của nhiều “công nghệ theo cấp số nhân”, chẳng hạn như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học và vật liệu nano [4].

Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN lần thứ tư là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, CNCM lần thứ tư tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions,…) và công nghệ nano.

Bản chất của cuộc CMCN lần thứ tư là phương thức sản xuất thông minh dựa trên trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Những đột phá trong thời gian gần đây như điện toán đám mây, thiết bị di động thông minh, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn,… đang tạo điều kiện cho quá trình sản xuất thông minh diễn ra ngày càng rộng rãi với hệ thống máy móc tự động kết nối, tự tổ chức và quản lý. Nhờ đó, quá trình tương tác diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và chính xác hơn, cho phép con người có thể kiểm soát mọi thứ từ xa, không giới hạn về không gian và thời gian.

Điểm đặc biệt là cuộc CMCN lần thứ tư đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Công nghệ theo cấp số nhân quen thuộc nhất là công suất máy tính tăng theo cấp số nhân về độ phức tạp và sức mạnh tính toán, trong khi đó giảm chi phí tương đương cho nhà sản xuất và người tiêu dùng, tuân theo định luật Moore.

CMCN lần thứ tư đã, đang và sẽ đưa đến quá trình sản xuất với máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, hệ thống quản trị thông minh; tạo ra nền công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - dịch vụ thông minh. Đây là động lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. CMCN lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế - xã hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội.

3. Những thách thức của giáo dục đại học trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư

Schwab đánh giá cuộc CMCN lần thứ tư đang ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế, các ngành công nghiệp và Chính phủ, thậm chí là những ý tưởng đầy thử thách về ý nghĩa của con người [5]. CMCN lần thứ tư cũng tạo động lực cho sự thay đổi lớn trong giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng, vì yêu cầu về nguồn nhân lực đủ trình độ, kỹ năng, đáp ứng được trong kỷ nguyên cuộc CMCN lần thứ tư.

Trong tương lai của những thay đổi xã hội chưa từng có, giáo dục là yếu tố quan trọng để có thể vượt qua được những thách thức của kỷ nguyên mới. Với thị trường việc làm tự động hóa, số hóa và nhanh chóng biến động, các hệ thống giáo dục đại học ngày nay đang nhanh chóng trở nên không tương thích với tương lai mà chúng ta đang hướng tới. Theo quan điểm của Østergaard và Nordlund, ít nhất có bốn thách thức mà GDĐH đang và sẽ phải đối mặt trong kỷ nguyên CMCN lần thứ tư [3].

Một là, nhu cầu học tập suốt đời ngày càng tăng trong một thế giới phi tuyến tính. Như trên đã phân tích, điểm nổi bật của cuộc CMCN lần thứ tư là tốc độ phát triển theo cấp số nhân và thay đổi nhanh chóng, chính vì vậy, người lao động cần liên tục học tập và cập nhật các kỹ năng của mình để có thể đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của công việc trong thời kỳ mới. Tư duy lạc hậu cho rằng mọi người được giáo dục sớm để sẵn sàng làm việc suốt đời sẽ không còn phù hợp.

Ý tưởng học tập suốt đời không có gì mới. Nhưng trong một thế giới đã trở nên phi tuyến tính hơn nhiều, các điều kiện để học tập suốt đời đã thay đổi đáng kể từ khi khái niệm này lần đầu tiên được đưa ra. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, cơ hội để các cá nhân tiếp cận các cơ hội học tập - theo những cách khác nhau, cho các mục đích khác nhau và ở các giai đoạn nghề nghiệp khác nhau - chưa bao giờ được mở rộng như thế.

Từ yêu cầu thay đổi đối với lực lượng lao động, dẫn đến sự thay đổi trong nhu cầu học tập của các cá nhân, hệ thống GDĐH cần được đổi mới tương đối toàn diện. Trước hết đó là sự đổi mới trong chương trình đào tạo. Do sự tác động của cuộc CMCN lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới sẽ hình hành và ngược lại cũng có những ngành nghề mất đi. Vì vậy, chương trình đào tạo của các trường phải được cập nhật, điều chỉnh liên tục. Các chương trình đào tạo không còn là đào tạo đơn ngành mà là đa ngành, liên kết giữa các lĩnh vực khác nhau như lý - sinh; cơ - điện tử… Tiếp đó, các trường cần có các mô hình đào tạo đa dạng, cung cấp phương tiện để đáp ứng được nhu cầu học tập suốt đời.

Hai là, những đòi hỏi và kỳ vọng ngày càng cao của người học. Giống như bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào khác, nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng (trong trường hợp này là sinh viên và người học) thúc đẩy sự thay đổi trong lĩnh vực giáo dục. Đặc điểm của người học đang thay đổi, không chỉ là những người trẻ nữa, mà là những người có nhu cầu học tập suốt đời. Giáo dục chung cho tất cả mọi người sẽ sớm bị thay thế bằng việc giáo dục được cá nhân hóa, phù hợp với nhu cầu và khả năng của người học. Người học dần có tư duy của người tiêu dùng và mua dịch vụ giáo dục đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Trong một thế giới có rất nhiều sự lựa chọn, thậm chí không bị ràng buộc bởi giới hạn địa lý, người học sẽ tìm đến những cơ sở GDĐH cung cấp được dịch vụ giáo dục tốt nhất, phù hợp với nhu cầu của mình, và họ sẽ đi nơi khác nếu kỳ vọng của họ không được đáp ứng.

Chính vì thế, các trường đại học cần có sự chuẩn bị sẵn sàng về công nghệ để có thể tiến tới cung cấp được dịch vụ học tập được cá nhân hóa, học tập từ xa. Các trường sẽ có sự thay đổi mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo, từ đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá với sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Các trường phải thay đổi mô hình giảng dạy, như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giảng viên đứng lớp, người học được hướng dẫn học qua mạng Internet,… để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người học.

Ba là, sự xuất hiện các công nghệ và mô hình kinh doanh mới trong giáo dục. Mặc dù tốc độ thay đổi trong lĩnh vực giáo dục nói chung chậm hơn so với các lĩnh vực kinh doanh khác, nhưng sự phát triển các mô hình kinh doanh mới trong giáo dục, đặc biệt là GDĐH đang trở nên phổ biến hơn bao giờ hết nhờ chuyển đổi kỹ thuật số. Sự phát triển nhanh chóng trong công nghệ giáo dục như trí thông minh nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật,… khiến cho những người trước đây nằm ngoài ngành giáo dục, giờ có thể tham gia và làm tổn hại đến các mô hình lâu đời của GDĐH. Những tác nhân mới này sử dụng công nghệ và dữ liệu để giới thiệu các phương pháp tiếp cận mới, thay thế nhằm đáp ứng tốt hơn những kỳ vọng đang thay đổi của người học. Hãy tưởng tượng những gã khổng lồ công nghệ như Google, Microsoft hoặc Amazon cung cấp chương trình giáo dục dựa trên trí tuệ nhân tạo, được cá nhân hóa, không tốn kém. Điều này sẽ tạo ra sức cạnh tranh vô cùng lớn đối với các cơ sở GDĐH truyền thống. Các trường đại học phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không phải chỉ giữa các cơ sở GDĐH với nhau mà còn với những đối thủ mà trước đó là người “ngoài ngành”.

Bốn là xu hướng “kỹ năng hơn bằng cấp”. Mặc dù bằng cấp vẫn còn giá trị, nhưng nói chung, chúng ta đang dần tiến tới một thực tế với việc tập trung nhiều hơn vào việc đạt được các kỹ năng chứ không phải bằng cấp. Quan điểm hiện tại thường cho rằng tấm bằng đại học là một công cụ đảm bảo cho thành công trong nghề nghiệp, bằng cấp tương quan với việc cải thiện cơ hội việc làm và đảm bảo mức thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, giá trị của bằng cấp đang bị đặt câu hỏi nhiều hơn bao giờ hết và không chỉ ở những nước mà sinh viên phải đối mặt với học phí cao và nợ cả đời, mà còn ở những hệ thống giáo dục nơi đại học “miễn phí” (chi phí cơ hội của việc bỏ ra vài năm nghiên cứu có giá trị trong 60 năm tới trong một sự nghiệp có thể sẽ liên tục thay đổi theo thời gian). Liệu giáo dục đại học truyền thống có còn là cách tốt nhất để cung cấp cho mọi người những kỹ năng cần thiết để cạnh tranh trong các thị trường việc làm không thể đoán trước hay không vẫn còn là điều gây tranh cãi.

Trong tình huống này, các trường đại học phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình đào tạo những gì thị trường cần, những nội dung của các môn học cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”.

4. Một số đề xuất cho giáo dục đại học Việt Nam

Cuộc CMCN lần thứ tư thực sự đặt GDĐH trước những thách thức diễn ra nhanh và sâu rộng, đòi hỏi sự đổi mới toàn diện trong hệ thống GDĐH các nước, trong đó có Việt Nam. Ở phần nội dung bài dưới đây, tác giả xin đưa ra một số đề xuất nhằm giúp GDĐH Việt Nam đáp ứng được với những nhu cầu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên CMCN lần thứ tư.

4.1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước

- Cần xây dựng chiến lược phát triển tổng thể GDĐH phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới. Chiến lược phát triển tổng thể GDĐH cần xác định vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực bậc cao và đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm, tư duy sáng tạo, có khả năng thích nghi với sự thay đổi liên tục của thị trường lao động, không phải chỉ trong nước mà cả khu vực và toàn cầu.

- Ban hành các quy chế, quy định đảm bảo dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học.

- Coi trọng quản lý chất lượng, chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng đào tạo.

- Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học.

- Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, khuyến khích liên kết với các cơ sở đại học nước ngoài có uy tín, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GDĐH.

4.2. Về phía các trường đại học

- Đổi mới chương trình đào tạo: Các trường cần từng bước xây dựng chương trình đào tạo, bổ sung thêm các môn học mới để cung cấp kiến thức cập nhật hơn, hướng tới phát triển các kỹ năng cần thiết cho các công nghiệp trong thời kỳ CMCN lần thứ tư. Trang bị cho người học năng lực tư duy, sáng tạo, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập, có ý thức học tập suốt đời.

- Đổi mới mô hình hình đào tạo: Với yêu cầu về nguồn lao động và nhu cầu học tập đa dạng, suốt đời của người học, các cơ sở GDĐH cần tạo ra mô hình giáo dục thông minh, liên kết giữa các yếu tố nhà trường - doanh nghiệp. Các cơ sở GDĐH phải đảm bảo cho tất cả mọi người có nhu cầu học tập có thể tiếp cận dịch vụ GDĐH phù hợp thông qua các hình thức, lộ trình đào tạo khác nhau.

- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động giáo dục, đào tạo: Các cơ sở GDĐH cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại trong quản lý, giảng dạy và học tập bằng việc đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống đào tạo trực tuyến, hệ thống giảng đường hiện đại, xây dựng thư viện điện tử,…

- Xây dựng đội ngũ quản lý và giảng viên có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ. Để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN lần thứ tư đòi hỏi đội ngũ quản lý và giảng viên phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến CMCN lần thứ tư, biết ứng dụng công nghệ hiện đại trong công tác quản lý, giảng dạy, có khả năng thích ứng trước sự thay đổi về chương trình, mô hình đào tạo và nhu cầu học tập của người học.

- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ: Các cơ sở GDĐH cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ. Để thực hiện sứ mệnh đó cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu đó trong hoạt động dạy - học và quản lý đào tạo, tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học giữa các cơ sở GDĐH trong và ngoài nước.

- Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động giáo dục đào tạo: các cơ sở GDĐH trong nước cần tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là với các cơ sở GDĐH có uy tín trong khu vực và thế giới để tiếp cận với những phương pháp dạy - học, cách thức quản lý, thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến, hiện đại của thế giới, để từ đó nâng cao hiệu quả của GDĐH Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Hobsbawm E. (1968). Industry and Empire - The Birth of the Industrial Revolution, The New Press, New York.
  2. Lasi H. et al (2014). Industry 4.0. Business & Information Systems Engineering, 6(4), 239-242.
  3. Østergaard and Nordlund (2019). The 4 biggest challenges to our higher education model - and what to do about them, available at: https://www.weforum.org/agenda/2019/12/fourth-industrial-revolution-higher-education-challenges/ [Accessed 01 February 2021].
  4. Penprase B.E. (2018). The Fourth Industrial Revolution and Higher Education. In: Gleason N. (eds). Higher Education in the Era of the Fourth Industrial Revolution, Palgrave Macmillan, Singapore.
  5. Schwab K. (2016). The fourth industrial revolution: what it means, how to respond, available at https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-means-and-how-to-respond/ [Accessed 01 February 2021].
  6. World Economic Forum (2017). Accelerating Workforce Reskilling for the Fourth Industrial Revolution An Agenda for Leaders to Shape the Future of Education, Gender and Work, available at https://www.weforum.org/whitepapers/accelerating-workforce-reskilling-for-the-fourth-industrial-revolution [Accessed 01 February 2021].
  7. World Economic Forum (2017). Realizing Human Potential in the Fourth Industrial Revolution - An Agenda for Leaders to Shape the Future of Education, Gender and Work, available at https://www.weforum.org/whitepapers/realizing-human-potential-in-the-fourth-industrial-revolution [Accessed 01 February 2021].

Challenges to Vietnam’s higher education sector in the context of Industry 4.0 and some recommendations

Master. Ninh Thi Hoang Lan

Thuongmai University

ABSTRACT:

The on-going Industry 4.0 has a strong impact on many fields, including the higher education sector. This paper presents an overview of the Industry 4.0 and challenges brought by this industrial revolution to the higher education sector. Based on the paper’s findings, some recommendations are proposed to improve the quality of Vietnam’s higher education sector in the context of the Industry 4.0.

Keywords: Industry 4.0, higher education, higher education in Vietnam.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 9, tháng 4 năm 2021]