Tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo đến khả năng thoát nghèo của người dân tại tỉnh Trà Vinh

ThS. NGUYỄN THỊ THÚY LOAN (Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Trà Vinh)

TÓM TẮT:

Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy Logistic kết hợp với phương pháp phỏng vấn chuyên sâu từ 160 hộ nghèo/thoát nghèo trên 4 huyện tỉnh Trà Vinh để đánh giá tác động của chính sách xóa đói giảm nghèo. Kết quả cho thấy chỉ có chính sách tín dụng ưu đãi và giáo dục có tác động đến xác suất thoát nghèo. Ngoài ra, khả năng thoát nghèo của hộ còn bị tác động bởi các yếu tố như hoạt động phi nông nghiệp, tuổi, trình độ học vấn, dân tộc, tỷ lệ người phụ thuộc, cơ sở hạ tầng và diện tích đất bình quân. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra năm khuyến nghị chính sách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh.

Từ khóa: Chính sách, xóa đói giảm nghèo, thoát nghèo, tỉnh Trà Vinh.

1. Giới thiệu

Trà Vinh là tỉnh có thu nhập thấp nhất ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay và có tỷ lệ hộ nghèo là người Khmer chiếm tỷ trọng cao. Trong giai đoạn 10 năm qua (2002 - 2012), tỉnh đã thực hiện nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo với tổng kinh phí hơn 719.764 tỷ đồng nhưng tỷ lệ giảm nghèo cũng không cải thiện nhiều và tỷ lệ hộ tái nghèo lại tăng. Theo kế hoạch giai đoạn 2011-2015, Tỉnh dự kiến kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo trên toàn tỉnh từ 23,63% xuống 10% nhưng kết quả thực hiện đến năm 2013 chỉ giảm xuống 13,96% trong đó tỷ lệ hộ nghèo dân tộc Khmer chỉ giảm khoảng 7%.

Các nghiên cứu trước đây của Walle và cộng sự (2001), Krishna (2004), Nguyễn Trọng Hoài và cộng sự (2006), World Bank (2007), Đinh Phi Hổ và Chiv (2009) đã đưa ra nhiều yếu tố tác động đến khả năng thoát nghèo của hộ như đặc điểm nhân khẩu (quy mô hộ, trình độ học vấn, dân tộc), quy mô đất canh tác, đa dạng hóa ngành nghề và các yếu tố môi trường (tiếp cận thị trường, cơ sở hạ tầng, chính sách tín dụng). Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cũng như ở Trà Vinh nhưng cho đến nay chưa có một đánh giá đầy đủ nào về tác động của các chính sách xóa đói giảm nghèo (XĐGN). Do đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đánh giá tác động của năm chính sách XĐGN nổi bật hiện đang áp dụng ở Trà Vinh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kinh phí như chính sách tín dụng ưu đãi; hỗ trợ nhà ở, đất ở/sản xuất; trợ cấp y tế; trợ cấp giáo dục và trợ cấp tiền mặt khác. Với phương pháp hồi quy Logistic dựa trên số liệu khảo sát thực tế từ 160 hộ ở hai nhóm: Hộ thoát nghèo và hộ nghèo, kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học tin cậy cho các cấp chính quyền tham khảo trong công tác hoạch định và lựa chọn chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ XĐGN của Tỉnh.

2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố tác động đến khả năng thoát nghèo của người dân trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, đặc biệt tập trung nghiên cứu sâu đến năm chính sách XĐGN nổi bật chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kinh phí hỗ trợ như tín dụng ưu đãi; hỗ trợ nhà/đất; trợ cấp giáo dục; trợ cấp y tế và hỗ trợ tiền mặt khác như tiền điện, nước sinh hoạt hàng tháng cho người nghèo.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Phương pháp nghiên cứu định tính

Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn, lấy ý kiến chuyên gia - trực tiếp phỏng vấn, lấy ý kiến của các cán bộ quản lý Sở, Ban ngành có liên quan nhằm giải thích các kết quả nghiên cứu định lượng và hỗ trợ cho việc đưa ra giải pháp.

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng

Đề tài sử dụng phương pháp hồi quy Binary Logistic để xác định các yếu tố tác động đến khả năng thoát nghèo của người dân. Số liệu được điều tra thực tế trên 160 hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo và thoát nghèo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

Gọi Pi = E(Y = 1/Xi) = P(Y = 1) là xác suất để hộ thoát nghèo khi các biến độc lập Xi có giá trị cụ thể.

Trong đó: Biến phụ thuộc Yi (1: thoát nghèo - nhóm hộ là hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2012 và thoát nghèo trong năm 2013 - 2014; 0: chưa thoát nghèo - hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2014) và các hệ số hồi quy của các biến độc lập.

3. Kết quả và thảo luận

3.1. Kết quả nghiên cứu

Tác giả thực hiện chạy mô hình hồi quy Logistic theo phương pháp từ mô hình tổng quát đến mô hình đơn giản và mô hình cuối cùng được chọn có kết quả sau:

Mô hình ước lượng có chỉ số Prob > Chi Squared là 0,000 nên mô hình có ý nghĩa thống kê mức 1%. Giá trị tuyệt đối của chỉ số log likelihood tương đối lớn (58,066) nên mô hình xây dựng ở trên là phù hợp. Đồng thời, ma trận tương quan và kiểm định đa cộng tuyến đều cho thấy mô hình xây dựng trên không xảy ra hiện tượng tự tương quan và đa cộng tuyến.

Trong năm chính sách, chính sách tín dụng ưu đãi và trợ cấp giáo dục là có ý nghĩa ở mức 10%, nghiên cứu chưa phát hiện tác động của các chính sách còn lại. Ngoài ra, các biến dân tộc, trình độ học vấn, tuổi của chủ hộ, tỷ lệ người phụ thuộc, diện tích đất bình quân, hoạt động phi nông nghiệp và đường ô tô cũng có ý nghĩa thống kê và dấu hệ số đều phù hợp với kỳ vọng.

3.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu

3.2.1 Các yếu tố chính sách Nhà nước ảnh hưởng đến khả năng thoát nghèo

3.2.1.1. Tín dụng ưu đãi

Chính sách tín dụng ưu đãi có hiệu quả cao nhất trong hàng loạt chính sách. Giả sử, xác suất thoát nghèo ban đầu là 10% nếu hộ nhận hỗ trợ thì xác suất thoát nghèo tăng lên 29,27% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Với khoản tín dụng nhận được, chủ yếu hộ dùng để mua bò giống (chiếm 69%), cây/con giống hay buôn bán để tạo nguồn thu nhập ổn định, đồng thời có thể trang trải một phần sinh hoạt phí. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 15,63% hộ nhận được hỗ trợ, trong đó có hơn 65% trả lời là không biết thông tin và 20% là không thuộc diện hỗ trợ. Điều này cho thấy công tác tuyên truyền thông tin chưa được quan tâm đúng mức.

Hộp 1: Thoát nghèo nhờ vay vốn mua bò

Anh L.V.Đ đã thoát nghèo nhờ Hội Phụ nữ xã cho vay 8 triệu để mua bò giống vào năm 2010. Bên cạnh đó, anh cũng chịu khó làm ăn, dành khoản tiền còn dư lại đi học nghề sửa máy cày để kiếm thêm thu nhập cho gia đình bốn người, trong đó có hai người con nhỏ. Sau ba năm, nhà anh không những trả hết số vốn vay ban đầu, mà đàn bò nhà anh đã lên đến 4 con, trong đó có 2 con bò giống. Hiện nay, thu nhập gia đình đã ổn định.

(Nguồn: Khảo sát thực tế tháng 03/2015)

Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp chính sách này có tác dụng ngược lại, làm cho hộ nghèo hơn do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Một phần là do ý thức của hộ kém, sử dụng sai mục đích, không tái đầu tư sản xuất mà chủ yếu dùng để chi tiêu nên không có khả năng chi trả, rơi vào vòng quẩn luẩn của nghèo đói. Phần khác, do phương thức thực thi chính sách ở một số địa phương cũng gián tiếp làm giảm hiệu quả tác động.

Hộp 2: Bất cập của tín dụng ưu đãi nuôi bò

Bà K.T.Đ (43 tuổi) sống với người cháu gái (16 tuổi) ở huyện Trà Cú, nhà không có ruộng nên cuộc sống phụ thuộc vào tiền làm thuê bấp bênh. Bà kể: “Khi được xã xét cho nhận cặp bò,  sau 1 tuần nuôi thì cặp bò bị bệnh và chết, do bò giống không có chất lượng và không được lựa chọn con giống. Hai năm nay, cuộc sống của nhà tôi càng tệ hơn, vừa phải lo cái ăn hằng ngày vừa phải lo trả khoản nợ vay này”.

Theo chia sẻ của trưởng ấp ở đây cho biết trường hợp của bà Đ. chỉ là một trong những trường hợp thường gặp vừa qua.

(Nguồn: Khảo sát thực tế tháng 03/2015)

3.2.1.2. Hỗ trợ nhà ở, đất ở/sản xuất

Nghiên cứu chưa phát hiện tác động của chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở/sản xuất đến xác suất thoát nghèo trên toàn địa bàn. Theo kết quả khảo sát, có 21,26% hộ nhận hỗ trợ; trong đó hộ thoát nghèo chiếm 35,14%. Những trường hợp nhận hỗ trợ nhà ở chủ yếu là các gia đình chính sách và đối tượng được nhận trợ cấp đất là những hộ dân tộc trong tỉnh di cư đến địa phương để làm thuê và định cư lại. Chính sách góp phần giúp cho người nghèo có thể “an cư lập nghiệp”, tuy nhiên chính sách cũng tồn tại một số bất cập. Do sau khi nhận trợ cấp, nhà cửa có phần khang trang hơn trước nên qua năm sau hộ được xã xét thoát nghèo trong khi nguồn thu thập của hộ cũng không có phần cải thiện hơn trước, điều này làm cho tỷ lệ tái nghèo của địa phương tăng lên.

Hộp 3: Hỗ trợ nhà ở có giúp thoát nghèo?

Anh N.V.T (44 tuổi) nhận được hỗ trợ 20 triệu đồng cất nhà vào năm 2010. Gia đình góp thêm tiền tiết kiệm và vay mượn thêm được 20 triệu đồng để phụ cất nhà (nhà lợp tôn, vách lá). Nhưng sau khi cất xong nhà, gia đình anh được xã xét thoát nghèo, gánh nặng học phí của hai đứa con nhỏ và chi phí khám bệnh của mẹ già đã làm cho gia đình rơi vào cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, khoản nợ cất nhà mà anh vay giờ trở thành mối lo ngại lớn cho gia đình.

Theo lời của trưởng ấp: “Mặc dù biết hoàn cảnh gia đình anh rất khó khăn nhưng chẳng thể giúp vì hằng năm xã giao khoán chỉ tiêu thoát nghèo, chúng tôi chỉ căn cứ vào các tiêu chí để xét. Mà các tiêu chí đó lại chủ yếu dựa vào tài sản có thể quan sát được của hộ như đất đai, nhà cửa,…”

 (Nguồn: Khảo sát thực tế tháng 03/2015)

3.2.1.3. Trợ cấp y tế

Tương tự, nghiên cứu cũng chưa phát hiện tác động của chính sách trợ cấp y tế, nhưng đây lại là chính sách có tỷ lệ hộ nhận hỗ trợ cao nhất chiếm trên 74%. Chính sách này cũng có tác động hai chiều, vừa tích cực cũng như hạn chế. Nhiều hộ nhờ có sự hỗ trợ này mà họ giảm bớt gánh nặng khám chữa bệnh cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt gia đình có người lớn tuổi. Mặt khác, chính sách này còn mang tâm lý “sợ thoát nghèo”, nhất là những gia đình có mức thu nhập gần ngưỡng cận nghèo - có khả năng tái nghèo cao. Chẳng hạn, một số trường hợp hộ thoát nghèo khi được phỏng vấn thì họ tỏ vẻ không hài lòng khi được xét thoát nghèo, vì khi đó họ sẽ không nhận được khoản cấp trợ này.

3.2.1.4. Trợ cấp giáo dục

Phát hiện mới của nghiên cứu là chính sách trợ cấp giáo dục lại có tác dụng ngược với kỳ vọng. Những hộ nhận được trợ cấp thì khả năng thoát nghèo lại thấp hơn, cụ thể nếu hộ có xác suất thoát nghèo ban đầu là 10% thì khi hộ nhận trợ cấp xác suất thoát nghèo của hộ lại giảm 3,46%. Mức hỗ trợ về giáo dục tương đối thấp so với chi phí đi học, tiền học phí chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí, đặc biệt là chi phí cơ hội - thay vì đi học các em có thể phụ giúp gia đình hoặc kiếm thêm thu nhập từ việc làm thuê. Hơn nữa, việc đầu tư giáo dục là khoản đầu tư dài hạn, lợi ích nhận được là trong tương lai nên trong ngắn hạn khó có thể nhận thấy. Điều này cho thấy sự nhận thức chưa đúng về tác động của giáo dục trong thoát nghèo của người dân, đặc biệt đối với khu vực đông người dân tộc cũng là một vấn đề đáng lo ngại của địa phương.

3.2.1.5. Trợ cấp tiền mặt

Chính sách trợ cấp tiền mặt cũng không có tác động đến khả năng thoát nghèo. Theo đó, những khoản trợ cấp tiền mặt hàng tháng khoản vài trăm chỉ đủ để cho hộ chi tiêu thêm hàng ngày mà không đủ để tái đầu tư cho sản xuất. Hơn nữa, chính sách này lại tạo ra tâm lý ỷ lại của hộ, không động lực để thoát nghèo, đặc biệt đối với hộ người dân tộc Khmer.

3.2.2. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng thoát nghèo

3.2.2.1. Dân tộc

Yếu tố dân tộc cũng có ảnh hưởng đến khả năng thoát nghèo của hộ. Giả sử xác suất thoát nghèo ban đầu của hộ là 10% thì hộ người Khmer xác suất này sẽ giảm xuống 2,13% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Do người Khmer ở Trà Vinh thường có trình độ giáo dục thấp, tập quán lạc hậu, hạn chế về ngôn ngữ và khả năng giao tiếp, chậm tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất hơn người Kinh - Hoa, đặc biệt ý thức thoát nghèo thấp. Đối với họ, gia đình thuộc diện hộ nghèo sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn vì hưởng được các chính sách hỗ trợ, chính vì thế họ không có động lực để thoát nghèo.

3.2.2.2. Tuổi của chủ hộ

Tuổi của chủ hộ càng cao thì xác suất thoát nghèo của hộ sẽ cao hơn 10,01% nếu xác suất ban đầu là 10%, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Trong mẫu khảo sát, chủ hộ của nhóm hộ nghèo có độ tuổi bình quân cao hơn nhóm hộ nghèo là 6,5 tuổi. Kiểm định T-test cho thấy cũng có sự khác biệt giữa hai nhóm với mức ý nghĩa 1%, chủ hộ càng lớn tuổi sẽ có kinh nghiệm sản xuất nhiều nên thu nhập cao hơn.

3.2.2.3. Trình độ học vấn

Thêm một năm đi học của chủ hộ sẽ có làm tăng xác suất thoát nghèo của hộ lên 13,03% với xác suất ban đầu là 10%. Những chủ hộ có trình độ học vấn cao thì họ có khả năng tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất, vận dụng linh hoạt nguồn lực sẵn có cũng như sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, điều này cũng phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước.

3.2.2.4. Tỷ lệ người phụ thuộc

Tỷ lệ người phụ thuộc cũng là một yếu tố cản trở sự thoát nghèo nhưng với mức ảnh hưởng thấp hơn so với các yếu tố khác. Cụ thể, nếu xác suất thoát nghèo ban đầu của hộ là 10%, 30%, 50% thì hộ có tỷ lệ người phụ thuộc tăng 1% sẽ làm xác suất này giảm xuống lần lượt là 4,24%, 14,59% và 28,5%. Do đặc điểm người phụ thuộc chủ yếu là trẻ em trung bình ở độ tuổi khoảng 13 - 14 tuổi, các em thường phải bỏ học để phụ giúp công việc trong gia đình hoặc làm thuê theo mùa vụ tại địa phương.

3.2.2.5. Diện tích đất bình quân

Khi các yếu tố khác đổi, hộ có diện tích đất bình quân trên người tăng lên 1 m2 thì xác suất thoát nghèo tăng lên 10,01% với xác suất ban đầu là 10%. Diện tích đất bình quân trên người của nhóm hộ nghèo trung bình là 379,6 m2/người, trong khi đó ở nhóm hộ thoát nghèo là 601 m2/người. Điều này cho thấy, người dân ở Tỉnh phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp và diện tích đất canh tác đóng vai trò lớn tạo nên sự khác biệt giữa hai nhóm hộ.

3.2.2.6. Cơ sở hạ tầng (đường ô tô)

Đường ô tô đến được nhà của hộ gia đình là môt trong những chỉ tiêu đại diện cho cơ sở hạ tầng của địa phương. Yếu tố này cũng có tác động làm tăng xác suất thoát nghèo của hộ, phù hợp với kỳ vọng ban đầu của mô hình. Theo đó, xác suất thoát nghèo của hộ tăng lên 21,97% nếu hộ gia đình nằm trong khu vực có đường ô tô đi được đến nhà nếu xác suất thoát nghèo ban đầu của hộ là 10%. Cơ sở hạ tầng giao thông được cải thiện sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho người dân tiếp cận với thị trường, giao thương buôn bán, cũng như dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ công như giáo dục, y tế. Thực tế khảo sát cho thấy, có nhiều trường hợp gia đình thoát nghèo, cuộc sống của gia đình có phần cải thiện và ổn định hơn nhưng vì lý do đường xá đi lại khó khăn nên gia đình cho con nghĩ học phụ giúp việc nhà.

3.2.2.7. Hoạt động phi nông nghiệp

Nghề nghiệp của hộ cũng tác động mạnh đến xác suất thoát nghèo, những hộ có thêm nguồn thu nhập khác ngoài nông nghiệp thì khả năng thoát nghèo sẽ càng cao. Giả định xác suất thoát nghèo ban đầu là 20% thì đối với hộ có công việc khác ngoài nông nghiệp sẽ tăng xác suất thoát nghèo lên 48,12% nếu các yếu tố khác không đổi. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân, tuy nhiên do diện tích đất canh tác còn hạn chế, trung bình ở hộ thoát nghèo cũng chỉ hơn 600 m2/người, trình độ sản xuất lại lạc hậu nên sản lượng đầu ra hoàn toàn phụ thuộc vào “thiên thời, địa lợi”. Thêm vào đó, chi phí đầu vào ngày càng tăng mà giá cả sản phẩm đầu ra lại giảm. Hơn nữa, Trà Vinh cũng là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất khu vực nên thu nhập từ nông nghiệp những năm gần đây có xu hướng giảm. Do đó, hộ buộc phải chuyển đổi sản xuất, tham gia vào các ngành nghề khác để tìm kiếm thu nhập. Các hộ thoát nghèo chủ yếu là có người đi làm công nhân ở các xí nghiệp ở gần địa phương hoặc di cư ở Bình Dương, Hồ Chí Minh,… Theo số liệu khảo sát thực tế, có gần 83% hộ thoát nghèo tham gia hoạt động phi nông nghiệp trong khi ở hộ nghèo chỉ có 69%. Do trình độ giáo dục ở hộ nghèo thấp hơn nên họ hạn chế khả năng tiếp cận các hoạt động phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn, công việc chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp (chiếm đến 31%).

4. Gợi ý chính sách

Thứ nhất, cần có chính sách riêng cho từng nhóm hộ nghèo/cận nghèo phù hợp với hoàn cảnh của hộ và từng địa bàn cụ thể.

Thực hiện công tác rà soát và phân loại nhóm hộ nghèo/cận nghèo theo mức độ khả năng thoát nghèo để có biện pháp hỗ trợ phù hợp. Chẳng hạn, những hộ không hoặc khó có khả năng thoát nghèo như hộ không có sức lao động do bệnh tật, già yếu thì cần đẩy mạnh chính sách cho “con cá”. Ngược lại, những hộ có khả năng lao động thì cần hỗ trợ “cần câu” như hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường, … hạn chế chính sách trợ cấp tiền mặt. Đối với những hộ không phải là hộ nghèo kinh niên thì cần xác định rõ thời hạn, lộ trình và điều kiện hỗ trợ để tránh tính ỷ lại của hộ.

Các hộ đã thoát nghèo cần tiếp tục được nhận hỗ trợ ít nhất 2 năm sau khi thoát nghèo. Một mặt, giúp hộ có thể tránh được các cú sốc do hỗ trợ bị cắt giảm đột ngột và tạo điều kiện thuận lợi cho hộ đẩy mạnh phát triển ổn định kinh tế. Mặt khác, hạn chế tình trạng ỷ lại vì có nhiều hộ không muốn phấn đấu thoát nghèo do sợ mất hỗ trợ.

Đối với từng địa bàn cụ thể cũng cần có những chính sách riêng phù hợp với đặc điểm của địa bàn đó. Như đã phân tích ở trước, mỗi huyện có những đặc điểm khác nhau, có chính sách chỉ có hiệu quả ở nơi này nhưng lại không có tác dụng ở nơi khác. Đối với vùng đông đồng bào dân tộc Khmer cần có chính sách hỗ trợ đặc biệt như bên cạnh cho vay vốn chăn nuôi, trồng trọt cần kết hợp đưa cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, tập huấn kỹ thuật nuôi trồng trực tiếp cho hộ; tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò của giáo dục, sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình.

Thứ hai, rà soát và điều chỉnh lại công tác thực thi chính sách tín dụng đảm bảo chương trình đạt được mục tiêu.

Mặc dù, chính sách tín dụng có vai trò quan trọng trong công tác giảm nghèo của tỉnh nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Cần đánh giá, phân loại các đối tượng cần vay vốn một cách rõ ràng, minh bạch và nắm bắt rõ mục đích vay vốn của hộ. Đa dạng hóa nguồn vốn vay với nhiều phương thức vay và trả khác nhau, xem xét thời hạn và mức cho vay tăng lên phù hợp với nhu cầu và mục đích vay vốn của hộ. Đồng thời, giao quyền tự chủ cho hộ, hạn chế trường hợp cấp con giống trực tiếp vì có thể không phù hợp với nhu cầu. Bên cạnh đó, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ mục đích sử dụng vốn vay và hình thức xử lý đối với những trường hợp sử dụng sai mục đích. Ngoài ra, phổ biến kiến thức và quy trình vay vốn đến các hộ để họ mạnh dạn vay vốn nếu có đủ điều kiện và nhu cầu, đặc biệt những hộ dân tộc.

Thứ ba, xây dựng tiêu chí bình xét hộ nghèo/thoát nghèo theo hướng tiếp cận nghèo đa chiều để nhận diện đúng tình trạng của hộ.

Linh hoạt hơn trong xây dựng tiêu chí xét chọn hộ nghèo/thoát nghèo phù hợp với địa phương. Hiện tại, chuẩn nghèo đang áp dụng thấp hơn nhiều so với giá trị thực do giá cả và chi phí sinh hoạt gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Từng bước xóa bỏ cơ chế giao khoán tỷ lệ thoát nghèo từ phía trên xuống đảm bảo kết quả thoát nghèo phản ánh đúng hoàn cảnh của hộ. Cần căn cứ theo thực trạng của địa phương mà xây dựng các tiêu chí phù hợp để bình xét, đối với những địa bàn có mức sống cao cần nâng chuẩn nghèo lên, hướng tới xây dựng chuẩn nghèo đa chiều liên quan đến các khía cạnh như y tế, giáo dục, nhà ở, khả năng tiếp cận thị trường,…

Thứ tư, cần có chính sách khuyến khích đầu tư để tạo thêm nhiều việc làm phi nông nghiệp giúp đa dạng hóa nguồn thu nhập cho người dân vùng nông thôn.

Chính quyền địa phương cần có chính sách khuyến khích đầu tư hoặc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ mở rộng sản xuất để đa dạng hóa việc làm, gắn với ổn định thu nhập từ các nguồn lực sẵn có và đặc thù của từng địa bàn. Chẳng hạn, trong quá trình khảo sát thực tế và trò chuyện với cán bộ ấp Thốt Lốt, xã Ngũ Lạc, được biết người dân ở khu vực này thoát nghèo chủ yếu nhờ mô hình hợp tác xã nông sản sạch. Theo đó, những hộ gia đình có ruộng đất ít hoặc những gia đình có ruộng đất bỏ hoang liên kết với nhau, áp dụng mô hình trồng rau sạch để xuất khẩu sang nước ngoài. Trong giới hạn, đề tài không tập trung nghiên cứu sâu tác động của mô hình này mang lại, mà chỉ mang tính gợi ý về một mô hình thoát nghèo mới, cần được nhân rộng và quan tâm hỗ trợ của chính quyền hơn nữa để duy trì phát triển. Vì mô hình này tận dụng được nguồn lực, lợi thế của địa phương, góp phần giải quyết việc làm đối với các hộ nghèo không có đất canh tác, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em nghèo.

Bên cạnh đó, cần lồng ghép nhiều chương trình hỗ trợ, nhất là nên thông qua chương trình của hội phụ nữ nhằm tăng cường khả năng kinh doanh nhỏ, đào tạo nghề, truyền nghề, cấy nghề, nhất là nghề thủ công gắn với truyền thống của đồng bào dân tộc như đan lát, thủ công mỹ nghệ bằng tre nứa, trợ vốn để khởi sự kinh doanh, trợ vốn theo nhóm phụ nữ.

Cuối cùng, chính sách trợ cấp giáo dục không chỉ dừng lại ở miễn giảm học phí cho hộ nghèo/cận nghèo.

Theo các nghiên cứu trước đều cho thấy đầu tư cho giáo dục là cơ hội giúp người nghèo cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập. Tuy nhiên ở nghiên cứu này lại phát hiện chính sách giáo dục lại không có tác động tích cực. Như đã phân tích ở trên, nguồn hỗ trợ từ miễn giảm học phí không đủ bù đắp khoản chi phí đến trường, vì đối với hộ nghèo thì trẻ em cũng là một nguồn lao động quan trọng, đặc biệt là người Khmer. Do đó, chính sách trợ cấp giáo dục cần mở rộng hỗ trợ hơn nữa, tạo điều kiện cho trẻ em đến trường như trợ cấp một phần chi phí đồ dùng học tập, cấp học bổng với số lượng và giá trị cao hơn. Đồng thời, các tổ chức đoàn thể địa phương cần vận động, tuyên truyền theo hướng giúp hộ nhận thức được lợi ích lâu dài từ giáo dục, khuyến khích đưa con em đến trường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đinh Phi Hổ và Vanndy Chiv (2009), “Nghèo và môi trường tự nhiên trong quá trình phát triển bền vững ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển Kinh tế (220).

2. Ngân hàng Phát triển Châu Á (2012), Đánh giá nghèo Việt Nam với tựa đề “Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”, Hà Nội.

3. Ngân hàng Thế giới (2004), Báo cáo phát triển Việt Nam: Nghèo, Hà Nội.

4. Ngân hàng thế giới (2004), Báo cáo cập nhật nghèo 2006: Nghèo và giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2004, Hà Nội.

5. Ngân hàng thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam: Hướng tới tầm cao mới, Hà Nội.

6. Nguyễn Trọng Hoài (2005), “Nghiên cứu ứng dụng các mô hình kinh tế lượng phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói và đề xuất giải pháp xóa đói giảm nghèo ở Đông Nam Bộ”, đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Trà Vinh (2013), Báo cáo kết quả thực hiện năm 2013 và kế hoạch thực hiện Đề án giảm nghèo bền vững năm 2014, Trà Vinh.

8. Krishna (2004), “Escaping poverty and becoming poor: Who gains, Who loses, and Why?”, World Development, 32 (1), 121-136.

THE IMPACT OF POVERTY

REDUCTION POLICIES ON PEOPLE'S ABILITY

TO ESCAPE POVERTY IN TRA VINH PROVINCE

MA. NGUYEN THI THUY LOAN

Faculty of Economics and Law - Tra Vinh University

ABSTRACT:

This study uses the Logistic regression model and the in-depth interview from 160 poor/nonpoor in 4 districts of Tra Vinh province to assess the impacts of five poverty reduction policies. The results showed that the incentive credit policy and the educational subsidy policy have a noticeable impact on the probability of poverty graduation. In addition, the households probability to escape from poverty is significantly influenced by other factors, including off-farm activities, age, ethnicity, level of education, number of dependants and average land size. Based on the research findings, the author proposes five policy recommendations to improve the effectiveness of upcoming poverty reduction efforts in Tra Vinh province.

Key words: Policy impacts, poverty reduction, poverty graduation, Tra Vinh province.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 07 tháng 06/2017 tại đây