TS. Bùi Bá Nghiêm - Chuyên viên cao cấp, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, Phó Trưởng ban soạn thảo, chủ trì nghiên cứu xây dựng Chiến lược chia sẻ với Tạp chí Công Thương về động lực mới này.

Hiện thực hóa khát vọng đưa logistics trở thành ngành dịch vụ nền tảng
PV: Trước hết xin chúc mừng Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 vừa được phê duyệt. Xin ông cho biết ý nghĩa của việc Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt Chiến lược này?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Với nỗ lực không ngừng nghỉ trong quãng thời gian hơn hai năm, ngày 09/10/2025 sau khi nhận được thông tin Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn thay mặt Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt Chiến lược tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg thì tập thể những người trực tiếp tham gia nghiên cứu, xây dựng Chiến lược vừa tự hào, vừa xúc động vì đây là niềm vinh dự lớn nhưng cũng là trăn trở, trọng trách nặng nề khi thời gian tới chúng tôi sẽ phải tiếp tục hiện thực hóa những mục tiêu đầy khát vọng của Chiến lược.
Việc Chiến lược được phê duyệt thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Chính phủ đối với ngành dịch vụ logistics - một ngành dịch vụ then chốt, có vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng và năng lực cạnh tranh quốc gia. Đây là dấu mốc mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ với ngành dịch vụ logistics mà còn với toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Lần đầu tiên, chúng ta có một Chiến lược phát triển dịch vụ logistics quốc gia mang tính tổng thể, dài hạn và đồng bộ, đặt trong tổng thể chiến lược phát triển công nghiệp, thương mại và hội nhập quốc tế của đất nước.
Bản Chiến lược không chỉ là kết quả nghiên cứu đơn thuần, mà còn là kết tinh của tư duy đổi mới, tầm nhìn phát triển và khát vọng đưa logistics trở thành ngành dịch vụ nền tảng của nền kinh tế Việt Nam hiện đại.
Tư duy đột phá, dài hạn trong phát triển hệ sinh thái logistics Quốc gia bền vững, hội nhập quốc tế
PV: Ông có thể chia sẻ những thuận lợi, khó khăn lớn nhất trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Chiến lược?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Trong suốt quá trình nghiên cứu, xây dựng Chiến lược diễn ra trong hơn hai năm, điều thuận lợi lớn nhất đối với chúng tôi chính là sự quan tâm, tin tưởng, chỉ đạo nhất quán của các cấp Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của Đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Công Thương và Đồng chí Nguyễn Sinh Nhật Tân, Thứ trưởng Bộ Công Thương - Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng Chiến lược, cùng sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các Bộ, ban, ngành và địa phương, cùng nhiều chuyên gia, nhà khoa học, hiệp hội, doanh nghiệp.
Điều này có thể thấy rõ thông qua các Nghị quyết then chốt, có tính đột phá như: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Đặc biệt, nhiều ý kiến đóng góp, đề xuất rất cụ thể của các địa phương, cộng đồng các hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics đã giúp Chiến lược có được hơi thở thực tiễn, tính khả thi cao, bám sát với nhu cầu và xu hướng phát triển của thị trường trong nước và quốc tế.
Ngoài những thuận lợi nêu trên, chúng tôi cũng gặp không ít những khó khăn, bất cập trong quá trình nghiên cứu, xây dựng Chiến lược.
Khó khăn lớn nhất chính là thiếu dữ liệu thống nhất, đồng bộ và cập nhật về logistics của các cấp từ trung ương, địa phương và hiệp hội, doanh nghiệp. Do quy mô, phạm vi và tính liên ngành của dịch vụ logistics quá rộng. Đây là ngành dịch vụ tổng hợp, liên quan trực tiếp tới giao thông vận tải, hải quan, cảng biển, công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, tài chính, môi trường, giáo dục, khoa học công nghệ và chuyển đổi số,… khiến việc phối hợp liên ngành, đánh giá thực trạng và dự báo xu hướng phát triển phải rất cẩn trọng, cần rất nhiều thời gian và nỗ lực.
Chúng tôi phải làm việc, xin ý kiến của hơn 10 Bộ, ban, ngành và 63 địa phương (theo đơn vị hành chính cũ), cùng các hiệp hội, doanh nghiệp, nhà khoa học, chuyên gia quốc tế để thống nhất từ nhận thức đến những quan điểm, định hướng lớn, cũng như tầm nhìn và mục tiêu cốt lõi của Chiến lược nhằm phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trong giai đoạn tới.
Bên cạnh đó, thể chế pháp lý hiện hành còn có khoảng cách nhất định so với xu hướng phát triển nhanh của logistics số, logistics xanh và các mô hình mới như khu thương mại tự do (FTZ), cảng thông minh, kho ngoại quan số hóa… cũng là những thách thức không nhỏ đối với chúng tôi, cùng với việc còn phải đối mặt với áp lực thời gian, yêu cầu tính khoa học, tính chính xác và tính khả thi cao trong từng luận điểm, chỉ tiêu.
Có thể thấy rõ sự khác biệt lớn nhất ở Chiến lược này chính là nằm ở tư duy, tầm nhìn phát triển tổng thể, bao trùm, đồng bộ, dài hạn và cách tiếp cận phát triển hệ sinh thái logistics quốc gia thông minh, bền vững, hội nhập quốc tế.

Cơ hội, thách thức và những giải pháp trọng tâm để thực hiện thành công Chiến lược
PV: Theo ông, đâu là những thuận lợi, cơ hội cũng như khó khăn, thách thức lớn nhất mà ngành dịch vụ logistics Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt trong thời gian tới và những giải pháp trọng tâm để thực hiện thành công Chiến lược?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Có nhiều thuận lợi, cơ hội phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong thời gian tới, trong đó phải kể đến:
(i) Vị trí địa kinh tế chiến lược và điều kiện tự nhiên thuận lợi: Việt Nam nằm trên các tuyến vận tải biển và hàng không quốc tế quan trọng, gắn các trung tâm sản xuất lớn của thế giới (Trung Quốc, ASEAN, Đông Bắc Á). Đường bờ biển dài trên 3.260 km cùng hệ thống cảng biển ngày càng hiện đại tạo nền tảng để trở thành trung tâm trung chuyển khu vực.
(ii) Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng: Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do như: CPTPP, EVFTA, RCEP,… mở ra không gian phát triển thương mại, tăng trưởng xuất nhập khẩu luôn ở mức cao, tạo nguồn cầu lớn cho phát triển dịch vụ logistics chất lượng cao. Cơ chế thuận lợi từ các Hiệp định thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics xuyên biên giới và thương mại điện tử. Việt Nam đã trở thành một trong trung tâm thu hút đầu tư và sản lượng hàng hóa lớn, cả về hàng công nghiệp và nông nghiệp. Tăng trưởng xuất nhập khẩu liên tục ở mức 2 con số, quy mô thương mại quốc tế trong số 20 quốc gia hàng đầu thế giới.
(iii) Chuyển đổi số và công nghệ: Chính phủ đang đẩy mạnh Chương trình chuyển đổi số quốc gia, xây dựng hệ thống hải quan số, cảng biển thông minh, ứng dụng AI trong quản lý logistics, tạo đà cho dịch vụ logistics hiện đại. Ứng dụng Big Data, IoT, Blockchain giúp nâng cao minh bạch, giảm chi phí, tăng hiệu quả dịch vụ logistics và chuỗi cung ứng.
(iv) Kinh tế thế giới và Việt Nam phục hồi mạnh mẽ cùng với thị trường trong nước tăng trưởng mạnh: Xu hướng dịch chuyển và sắp xếp lại chuỗi cung ứng trên toàn cầu tạo ra nhiều cơ hội, thuận lợi cho các nước đang phát triển dịch vụ logistics, trong đó có Việt Nam. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử cao nhất khu vực Đông Nam Á. Tầng lớp trung lưu tăng nhanh, thương mại điện tử bùng nổ, nhu cầu phát triển dịch vụ logistics đô thị, logistics lạnh, logistics thương mại điện tử ngày càng lớn. Các tập đoàn bán lẻ và thương mại điện tử như: Amazon, Alibaba, Shopee, Tiki, … tạo động lực hình thành phát triển hệ sinh thái logistics mới.
Về những khó khăn, thách thức với ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong thời gian tới:
(i) Hạ tầng logistics chưa đồng bộ: Hệ thống trung tâm logistics, cảng, kho bãi, đường sắt, đường bộ nội địa phát triển chưa cân đối; kết nối liên vùng còn hạn chế. Cảng nước sâu có tiềm năng nhưng kết nối hậu cần chưa hiệu quả.
(ii) Chi phí logistics còn cao: Chi phí logistics Việt Nam tương đương khoảng 16 - 18% GDP, cao hơn nhiều so với mức trung bình thế giới khoảng 10 - 12%. Cấu trúc chi phí bất hợp lý: chi phí vận tải đường bộ chiếm tỷ trọng quá lớn do thiếu phát triển đường sắt, đường thủy nội địa.
(iii) Năng lực doanh nghiệp dịch vụ logistics trong nước: Phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu, thiếu tính liên kết. Thiếu hụt lao động, đặc biệt là lao động chất lượng cao tại các doanh nghiệp dịch vụ logistics. Thị phần dịch vụ logistics cao cấp vẫn chủ yếu do doanh nghiệp FDI nắm giữ.
(iv) Thách thức toàn cầu: Cạnh tranh gay gắt trong khu vực: Singapore, Thái Lan, Malaysia đều đang phát triển mạnh dịch vụ logistics số và cảng trung chuyển. Biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, yêu cầu giảm phát thải carbon (Net Zero 2050) gây áp lực đầu tư lớn vào dịch vụ logistics xanh. Rủi ro địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu như: căng thẳng thương mại, xung đột chính trị, quân sự, dịch bệnh, khủng hoảng vận tải quốc tế,… tác động trực tiếp đến sự phát triển của ngành dịch vụ logistics.

Định hướng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam tầm nhìn đến 2050:
Trong giai đoạn 2025 - 2035, ngành dịch vụ logistics Việt Nam vừa đứng trước cơ hội lịch sử để bứt phá, vừa đối diện nhiều thách thức cơ cấu và cạnh tranh toàn cầu. Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược đã nêu được các quan điểm, mục tiêu, định hướng và giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm thực hiện thành công Chiến lược, đáp ứng tính khả thi, mạnh mẽ, hiệu quả và có tầm nhìn xa trông rộng để phát triển dịch vụ logistics Việt Nam tầm nhìn đến 2050:
(i) Việt Nam trở thành trung tâm logistics chiến lược của ASEAN và thế giới, đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng khu vực.
(ii) Phát triển dịch vụ logistics xanh, thông minh và số hóa toàn diện, tích hợp AI, Blockchain, IoT, dữ liệu lớn.
(iii) Đồng bộ hạ tầng kết nối đa phương thức, hình thành các khu thương mại tự do, cảng miễn thuế, trung tâm trung chuyển quốc tế tại Cái Mép - Thị Vải, Lạch Huyện,…
(iv) Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam lớn mạnh, hội nhập quốc tế, có khả năng cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn toàn cầu.
(v) Dịch vụ logistics không chỉ phục vụ thương mại hàng hóa mà còn thúc đẩy dịch vụ giá trị gia tăng, thương mại điện tử xuyên biên giới, dịch vụ tài chính - logistics.
Trong quá trình xây dựng Chiến lược, chúng tôi đã tham khảo kinh nghiệm quốc tế, huy động các chuyên gia đầu ngành đến từ các Bộ, ban, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp logistics; quán triệt sâu sắc các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đặc biệt cập nhật tinh thần của 4 Nghị quyết trụ cột nêu trên, cũng như áp dụng phương châm 5 rõ "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ tiến độ, rõ hiệu quả" trong việc xây dựng các chương trình, đề án ưu tiên triển khai để Chiến lược có thể đem lại hiệu quả từ những năm đầu tiên sau khi được ban hành. Đồng thời, đã cập nhật kịp thời các chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc phát huy sức mạnh của sáp nhập địa giới hành chính, liên kết vùng, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động của địa phương trong việc đưa ra các định hướng, giải pháp thực hiện Chiến lược.
Trên cơ sở đó, Chiến lược đã tập trung vào 8 định hướng chủ yếu, cùng 9 nhóm giải pháp, nhiệm vụ lớn với tầm nhìn đến 2050, bao gồm:
8 định hướng chủ yếu
(1) Tạo đột phá trong xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ logistics, thúc đẩy hội nhập quốc tế, tăng cường quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật đối với dịch vụ logistics theo cơ chế thị trường, thích hợp với trình độ phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với thông lệ, luật pháp quốc tế.
(2) Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại, chú trọng hạ tầng giao thông vận tải, hạ tầng thương mại và hạ tầng số, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
(3) Thúc đẩy liên kết các ngành, lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, khu vực và quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, nội vùng, liên vùng và cả nước theo từng giai đoạn phát triển làm cơ sở để phát triển dịch vụ logistics.
(4) Xây dựng nguồn hàng, phát triển thị trường logistics, bảo đảm tăng trưởng bền vững ngành dịch vụ logistics.
(5) Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp dịch vụ logistics, đồng thời nâng cao chất lượng và xanh hóa các hoạt động dịch vụ logistics dựa trên nền tảng số.
(6) Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu tiến bộ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics, nâng cao hiệu quả hoạt động logistics gắn với sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông phân phối trong nước và quốc tế.
(7) Phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ logistics.
(8) Nâng cao vai trò của các hiệp hội và các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ logistics, thúc đẩy hình thành các chuỗi cung ứng hiện đại, phát triển đa dạng các dịch vụ logistics giá trị gia tăng đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế, đưa Việt Nam trở thành trung tâm trung chuyển và phân phối hàng hóa của thế giới.
9 nhóm giải pháp, nhiệm vụ chủ yếu
(1) Hoàn thiện thể chế pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật đối với dịch vụ logistics.
(2) Đẩy mạnh đầu tư xây dựng, hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng logistics đồng bộ, hiện đại.
(3) Thúc đẩy liên kết vùng trong phát triển dịch vụ logistics.
(4) Xây dựng nguồn hàng, phát triển thị trường logistics.
(5) Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dịch vụ logistics và chất lượng dịch vụ logistics.
(6) Đẩy mạnh nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực dịch vụ logistics.
(7) Phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao.
(8) Nâng cao vai trò của các hiệp hội và các doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ logistics.
(9) Các nhiệm vụ khác.

Khởi đầu kỷ nguyên phát triển mới cho lĩnh vực dịch vụ logistics Việt Nam
PV: Trong suốt quá trình nghiên cứu, xây dựng Chiến lược cho đến nay, có điều gì khiến cá nhân ông trăn trở nhất về Chiến lược?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Sau khi nhận được Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược, điều khiến tôi trăn trở nhất hiện nay chính là làm thế nào để Chiến lược không chỉ là một văn bản, mà phải thực sự đi vào cuộc sống trở thành “kim chỉ nam hành động” cho cả hệ thống logistics quốc gia. Một chiến lược tốt phải kích hoạt được hành động, gắn kết tối đa hóa được các nguồn lực nhà nước và tư nhân, tạo cơ chế khuyến khích đổi mới, đầu tư, chia sẻ và phải gắn kết chặt chẽ được các yếu tố giữa thể chế, phát triển hạ tầng, nhân lực và chuyển đổi số, tạo nên một hệ sinh thái logistics quốc gia thông minh, xanh và bền vững. Cùng với đó là việc nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ logistics trong nước, để họ có thể cạnh tranh sòng phẳng, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, thay vì chỉ có thể làm đại lý cho các tập đoàn logistics quốc tế.
Vì vậy, trong nội dung Chiến lược này chúng tôi đã chú trọng nhiều đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển trung tâm logistics vùng, khu logistics tại cảng biển, cửa khẩu và khu công nghiệp trọng điểm, hướng tới một nền logistics quốc gia tự chủ, sáng tạo, kết nối và bền vững.
PV: Ông kỳ vọng gì về tác động của Chiến lược này trong giai đoạn tới?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Điều chúng tôi kỳ vọng đến năm 2035 cũng đã được thể hiện rõ trong những mục tiêu cốt lõi của Chiến lược, logistics Việt Nam sẽ trở thành ngành dịch vụ nền tảng, có trình độ phát triển ngang bằng những quốc gia dẫn đầu trong khu vực, tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong tổng sản phẩm trong nước đạt 5% - 7%; tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 12% - 15%; chi phí logistics so với tổng sản phẩm trong nước giảm xuống tương đương 12% - 15%; xếp hạng theo Chỉ số hiệu quả logistics (LPI - do Ngân hàng Thế giới công bố) trong nhóm 40 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu; số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics sử dụng các giải pháp chuyển đổi số đạt 80% số doanh nghiệp logistics Việt Nam; dịch vụ logistics phát triển hiệu quả theo hướng giảm phát thải, chuyển đổi sang các nguồn năng lượng xanh; 70% người lao động trong ngành dịch vụ logistics được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 30% có trình độ đại học trở lên và xây dựng được ít nhất 05 trung tâm dịch vụ logistics hiện đại ngang tầm quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với chuỗi cung ứng trong khu vực và quốc tế.
Xa hơn, đến năm 2050, Việt Nam sẽ hình thành mạng lưới trung tâm logistics vùng và quốc gia hiện đại, kết nối đồng bộ với trung tâm logistics khu vực ASEAN, tiểu vùng Mê Công - Lan Thương và các hành lang kinh tế Á - Âu với tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong tổng sản phẩm trong nước đạt 7% - 9%; tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành dịch vụ logistics hằng năm đạt 10% - 12%; tỷ lệ doanh nghiệp thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 80% - 90%; chi phí logistics so với tổng sản phẩm trong nước giảm xuống tương đương 10% - 12%; xếp hạng theo Chỉ số hiệu quả logistics (LPI - do Ngân hàng Thế giới công bố) trong nhóm 30 quốc gia và vùng lãnh thổ hàng đầu; số lượng doanh nghiệp dịch vụ logistics sử dụng các giải pháp chuyển đổi số đạt 100% số doanh nghiệp logistics Việt Nam; dịch vụ logistics tiếp tục phát triển hiệu quả theo hướng giảm phát thải, góp phần đưa phát thải ròng của quốc gia về 0; 90% người lao động trong ngành dịch vụ logistics được đào tạo trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 50% có trình độ đại học trở lên và xây dựng được ít nhất 10 trung tâm dịch vụ logistics hiện đại ngang tầm quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với chuỗi cung ứng trong khu vực và quốc tế.
Tin rằng, với với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, quyết tâm chính trị cao, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống, cùng với sự nỗ lực của các Bộ, ban, ngành, địa phương và cả cộng đồng hiệp hội, doanh nghiệp logistics, Chiến lược này sẽ mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam - hiện đại, thông minh, xanh và hội nhập quốc tế sâu rộng, nâng cao năng lực cạnh tranh, khẳng định vị thế trên bản đồ logistics khu vực và thế giới.
PV: Để gửi gắm một thông điệp đến cộng đồng doanh nghiệp logistics và các tổ chức, cơ quan liên quan, Ông muốn nói điều gì?
TS. Bùi Bá Nghiêm: Thành công của Chiến lược này không đến từ văn bản, mà đến từ sự cam kết, sáng tạo và hợp tác của tất cả chúng ta - nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội, doanh nghiệp và người lao động.
Ngay chiều 08/10 vừa qua, tại Đại hội thế giới Liên đoàn quốc tế các hiệp hội Giao nhận vận tải 2025 (FIATA World Congress 2025), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nêu rõ, Việt Nam tiếp tục đồng hành cùng các doanh nghiệp, tổ chức, đối tác quốc tế trên tinh thần cam kết "3 bảo đảm" và "3 cùng", mang theo thông điệp của đoàn kết, hợp tác, cùng thắng, phát triển nhanh, xanh, bền vững ngành logistics. Với phương châm "Đoàn kết - Hợp tác trách nhiệm - Phát triển bền vững", Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy, là điểm đến an toàn, hấp dẫn cho cộng đồng doanh nghiệp nói chung và lĩnh vực logistics nói riêng.
Cá nhân tôi cho rằng, hành trình của Chiến lược mới chỉ bắt đầu và tôi tin rằng mọi con đường đều sẽ dẫn đến Việt Nam. Hãy cùng nhau biến logistics Việt Nam thành nền tảng hạ tầng của hạ tầng, góp phần hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và bền vững vào năm 2045.
Phát biểu tại Đại hội FIATA World Congress 2025 ngày 08/10, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ bạn bè quốc tế sẽ có thêm niềm tin với Việt Nam, niềm tin để cùng hợp tác phát triển ngành logistics nhanh, xanh, số và bền vững. Trong đó:
"3 bảo đảm" gồm: Bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển logistics tại Việt Nam; bảo đảm các quyền lợi và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong nước, quốc tế trong mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực logistics; bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để các nhà đầu tư được an toàn, an ninh, yên tâm hoạt động.
"3 cùng" gồm: Cùng lắng nghe và thấu hiểu giữa doanh nghiệp với Nhà nước và người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, giữa các đối tác trong nước và đối tác quốc tế; cùng chia sẻ tầm nhìn và hành động để hợp tác, hỗ trợ nhau cùng phát triển nhanh và bền vững; cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, cùng phát triển, cùng chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự tự hào.