Phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay

Bài báo Phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay do Lê Hải Yến (Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương) thực hiện.

TÓM TẮT:

Bài viết tập trung phân tích vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Y tế hiện nay. Thông qua việc đánh giá thực trạng, bài viết chỉ ra những hạn chế hiện nay về kỹ năng số, nhận thức và khả năng ứng dụng công nghệ trong công việc chuyên môn; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Việc phát triển năng lực số không chỉ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, mà còn là nền tảng thúc đẩy chuyển đổi số y tế diễn ra hiệu quả và bền vững.

Từ khóa: năng lực số, phát triển năng lực số, cán bộ y tế, chuyển đổi số.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, chuyển đổi số đã và đang trở thành xu thế tất yếu trong hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong y tế. Chuyển đổi số y tế không chỉ giúp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, mà còn góp phần tối ưu hóa quy trình quản lý, tiết kiệm chi phí và nâng cao trải nghiệm của người bệnh. Tuy nhiên, để chuyển đổi số thực sự hiệu quả và bền vững, một trong những yếu tố then chốt là năng lực số của đội ngũ cán bộ y tế. Hiện nay, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã và đang triển khai nhiều chương trình, chính sách, nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế vẫn còn nhiều thách thức: thiếu hụt kỹ năng công nghệ thông tin, chưa có chương trình đào tạo bài bản, nhận thức về vai trò của chuyển đổi số chưa đồng đều, và thiếu hệ thống đánh giá năng lực phù hợp. Trong khi đó, sự thành công của chuyển đổi số y tế phụ thuộc lớn vào khả năng tiếp cận, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các công nghệ số của nhân lực ngành Y. Do đó, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế là yêu cầu cấp thiết, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình chuyển đổi số trong ngành Y tế.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Sự cần thiết phải phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra năm 2006, nhân lực y tế được định nghĩa như sau: “Nhân lực y tế là những người tham gia vào các hoạt động với mục đích chính tăng cường sức khỏe cộng đồng”. Nhân lực y tế là những người trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế hoặc là những người làm các công việc khác như quản lý, phục vụ cho công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Kỹ năng số của cán bộ y tế là tập hợp các năng lực, kiến thức và khả năng sử dụng hiệu quả công nghệ số, phần mềm, nền tảng số và dữ liệu số nhằm phục vụ cho các hoạt động chuyên môn, quản lý và chăm sóc sức khỏe trong môi trường y tế hiện đại. Cụ thể, kỹ năng số của cán bộ y tế bao gồm: (i) Khả năng sử dụng các công cụ và phần mềm công nghệ thông tin trong y tế: như hệ thống hồ sơ bệnh án điện tử (EMR), hệ thống quản lý bệnh viện (HIS), phần mềm chẩn đoán hình ảnh, kê đơn thuốc điện tử, hệ thống theo dõi điều trị,… (ii) Kỹ năng giao tiếp và làm việc qua môi trường số: như tư vấn sức khỏe từ xa (telemedicine), hội chẩn trực tuyến, sử dụng email, nền tảng hội nghị video, các công cụ hợp tác trực tuyến. (iii) Kỹ năng tìm kiếm, truy cập và khai thác thông tin y học số: biết cách sử dụng cơ sở dữ liệu y học, nghiên cứu trực tuyến và ứng dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ chẩn đoán và điều trị. (iv) Khả năng đảm bảo an toàn thông tin và bảo mật dữ liệu số y tế: hiểu và tuân thủ các quy định về quyền riêng tư, bảo vệ thông tin bệnh nhân và an ninh mạng trong lĩnh vực y tế. (v) Năng lực thích ứng với công nghệ mới và tư duy số: có khả năng học hỏi, cập nhật công nghệ mới, sẵn sàng thay đổi phương pháp làm việc phù hợp với môi trường số. Có thể thấy, kỹ năng số của cán bộ y tế không chỉ đơn thuần là biết sử dụng máy tính, mà còn là năng lực vận hành, ứng dụng và thích nghi với các công nghệ số trong toàn bộ quy trình khám, chữa bệnh, quản lý và chăm sóc sức khỏe. Đây là một yếu tố cốt lõi giúp nâng cao hiệu quả công việc, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và góp phần hiện đại hóa ngành y tế.

Chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu và là một yêu cầu bắt buộc giúp các quốc gia phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ở Việt Nam, lĩnh vực y tế cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và đặc biệt là làn sóng chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, ngành Y tế cũng không nằm ngoài xu thế này. Chuyển đổi số trong y tế không chỉ là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, khám chữa bệnh, mà còn là sự thay đổi toàn diện về cách thức tổ chức, vận hành hệ thống y tế dựa trên nền tảng công nghệ số. Điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ y tế, bao gồm bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý và nhân viên hành chính phải có năng lực số phù hợp để có thể thích ứng, làm chủ và khai thác hiệu quả các công nghệ mới. Việc phát triển năng lực số cho đội ngũ này do đó trở thành yêu cầu tất yếu, mang tính chiến lược trong quá trình hiện đại hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.

Quá trình chuyển đổi số y tế là một yêu cầu mang tính tất yếu, đồng thời cũng là nền tảng, động lực cho sự phát triển của ngành Y tế trong thời kỳ mới. Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 5316/QĐ-BYT ngày 22/12/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, với quan điểm lấy người dân làm trung tâm, các hoạt động chuyển đổi số y tế đã đưa ra các nội dung về phát triển nền tảng cho chuyển đổi số trong ngành Y tế, phát triển kinh tế số và xã hội số trong ngành Y tế [1]. Ban Cán sự Đảng bộ Y tế đã ban hành Nghị quyết số 157-NQ/BCSĐ ngày 3/2/2023 “Về chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu chung là: “1- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ y tế kịp thời, hiệu quả; 2- Công tác quản lý điều hành của Bộ Y tế, của các đơn vị y tế trong ngành Y tế phải được chuyển đổi thực hiện trên môi trường số. Xây dựng và triển khai công tác chuyển đổi số trên nền tảng dữ liệu và công nghệ số hiện đại thông qua việc số hóa toàn bộ thông tin: quản lý hệ thống nhân lực, nguồn lực; công tác cấp phép, cấp số đăng ký; công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trên môi trường mạng được bảo đảm an ninh, an toàn thông tin” [2]. Để hoàn thành mục tiêu trên, việc phát triển các năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.

Thứ nhất, sự thay đổi trong mô hình hoạt động y tế đòi hỏi cán bộ y tế phải có khả năng tiếp cận và sử dụng thành thạo các công cụ số. Các hệ thống như hồ sơ bệnh án điện tử (EMR), quản lý bệnh viện thông minh (HIS), tư vấn sức khỏe từ xa (telemedicine), trí tuệ nhân tạo trong chẩn đoán, hay nền tảng dữ liệu lớn (big data) đang ngày càng phổ biến và giữ vai trò then chốt trong chăm sóc sức khỏe hiện đại. Nếu không có năng lực số cần thiết, cán bộ y tế không những không thể vận hành hiệu quả các hệ thống này mà còn có nguy cơ trở thành rào cản trong tiến trình chuyển đổi số của đơn vị.

Thứ hai, phát triển năng lực số giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của cán bộ y tế. Khi cán bộ y tế có khả năng sử dụng công nghệ thành thạo, họ có thể giảm thiểu sai sót trong ghi chép, tiết kiệm thời gian trong quy trình hành chính, nâng cao khả năng tiếp cận và phân tích thông tin bệnh nhân, từ đó hỗ trợ đưa ra quyết định lâm sàng chính xác và kịp thời hơn. Đồng thời, công nghệ số cũng mở ra khả năng hợp tác, trao đổi chuyên môn từ xa giữa các chuyên gia y tế, giúp nâng cao năng lực chuyên môn và cập nhật tri thức nhanh chóng, liên tục.

Thứ ba, sự phát triển năng lực số còn góp phần thúc đẩy tính công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe. Ở các khu vực khó khăn, vùng sâu vùng xa, nơi nguồn lực y tế còn hạn chế, việc triển khai các giải pháp y tế số như khám chữa bệnh từ xa, theo dõi sức khỏe qua thiết bị di động, hay sử dụng hệ thống cảnh báo dịch bệnh có thể mang lại lợi ích rõ rệt. Tuy nhiên, để những công nghệ này thực sự phát huy tác dụng, cán bộ y tế tại địa phương cần được đào tạo và hỗ trợ phát triển năng lực số tương xứng. Nếu không, khoảng cách số sẽ càng làm sâu sắc hơn sự bất bình đẳng trong tiếp cận y tế giữa các vùng miền.

Thứ tư, yêu cầu về bảo mật, an toàn dữ liệu và đạo đức số trong y tế cũng đặt ra áp lực cho việc phát triển năng lực số. Trong môi trường số, cán bộ y tế không chỉ cần hiểu cách sử dụng công nghệ mà còn phải có nhận thức đúng về bảo vệ thông tin cá nhân, quyền riêng tư của người bệnh và các quy định pháp lý liên quan. Việc thiếu hụt kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực này có thể dẫn đến những rủi ro lớn về mặt pháp lý và uy tín của cơ sở y tế.

Thứ năm, phát triển năng lực số không nên được xem là một nhiệm vụ riêng lẻ hay ngắn hạn, mà cần được đặt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực y tế dài hạn. Việc tích hợp nội dung đào tạo năng lực số vào chương trình đào tạo ban đầu (đại học, cao đẳng) và đào tạo liên tục, xây dựng các khung năng lực số theo từng vị trí công việc, tổ chức các chương trình bồi dưỡng thực tiễn có tính ứng dụng cao là những giải pháp cần thiết để bảo đảm mọi cán bộ y tế đều được trang bị kỹ năng số phù hợp.

Như vậy, trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện hiện nay, phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế không chỉ là yêu cầu cấp bách, mà còn là yếu tố then chốt để bảo đảm quá trình chuyển đổi số ngành Y tế diễn ra hiệu quả, bền vững và lấy con người làm trung tâm. Đây là nền tảng quan trọng giúp ngành Y tế Việt Nam bắt kịp xu hướng công nghệ toàn cầu, nâng cao chất lượng dịch vụ, và phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân.

2.2. Thực trạng năng lực số của đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay

Theo thống kê về nhân lực của ngành Y tế, hiện nay, cả nước có khoảng hơn 35.000 nhân viên y tế, trong số đó lực lượng bác sĩ chiếm trên 96.200 người. Bên cạnh đó, số lượng y tá và hộ lý chiếm hơn 105.000 người, tương ứng 13 y tá, hộ lý/1 vạn dân [3]. Với mục tiêu đến năm 2030, hệ thống y tế từ Trung ương đến địa phương được hoàn thiện, hiện đại, phù hợp với từng vùng, miền; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố vững chắc; y tế chuyên sâu, y tế mũi nhọn đạt ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Số bác sĩ trên 10.000 dân thực hiện đạt 12,5 bác sĩ năm 2023 (vượt chỉ tiêu được giao là 12 bác sĩ); số giường bệnh trên 10.000 dân thực hiện đạt 32 giường bệnh năm 2023 (đạt chỉ tiêu được giao là 32 giường bệnh); tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế thực hiện đạt 93,2% dân số năm 2023 (đạt chỉ tiêu được giao chiếm 93,2% dân số) [4]. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trong ngành Y tế, yêu cầu về năng lực số đối với cán bộ y tế ngày càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy năng lực số của đội ngũ này vẫn còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ và kỳ vọng từ các chính sách chuyển đổi số quốc gia. Cụ thể như sau:

- Về ưu điểm

Ưu điểm nổi bật là sự thay đổi trong tư duy và nhận thức của cán bộ y tế về vai trò của chuyển đổi số. Nhiều cán bộ, đặc biệt ở tuyến trung ương và cấp quản lý, đã xác định được tầm quan trọng của công nghệ số trong nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, quản lý y tế và phục vụ người dân tốt hơn. Thái độ tích cực, sẵn sàng học hỏi, tiếp nhận công nghệ mới là nền tảng quan trọng giúp hình thành văn hóa số trong ngành Y tế. Đồng thời, đội ngũ cán bộ y tế hiện nay có khả năng thích ứng nhanh với các hệ thống công nghệ y tế mới. Thực tế triển khai cho thấy, đội ngũ cán bộ y tế, đặc biệt là lớp trẻ, có khả năng tiếp cận và sử dụng các phần mềm quản lý bệnh viện (HIS), hồ sơ bệnh án điện tử (EMR/EHR), và các nền tảng hội chẩn từ xa khá linh hoạt. Tại TP. Hồ Chí Minh, các bệnh viện trên địa bàn đang tích cực triển khai quá trình chuyển đổi từ hồ sơ giấy sang hồ sơ điện tử. Việc số hóa thông tin bệnh nhân không chỉ giúp đảm bảo an toàn dữ liệu mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy xuất, chia sẻ thông tin giữa các cơ sở y tế. Nhiều bệnh viện tiêu biểu đã và đang thực hiện tốt công tác này, như: Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện Nhi đồng Thành phố, Bệnh viện Trưng Vương, Bệnh viện Truyền máu Huyết học, Bệnh viện Y học cổ truyền, Bệnh viện Hùng Vương, Bệnh viện Nhân dân Gia Định, Bệnh viện Lê Văn Thịnh, Bệnh viện Răng Hàm Mặt TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Nhi đồng 1,... Trong số đó, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị tiên phong, trở thành bệnh viện đầu tiên công bố chính thức áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử thay thế hoàn toàn bệnh án giấy. Hệ thống này cho phép lưu trữ và quản lý toàn diện thông tin người bệnh, hỗ trợ bác sĩ trong việc tra cứu nhanh, liên thông dữ liệu và đưa ra quyết định điều trị chính xác hơn. Việc triển khai các chương trình như khám chữa bệnh từ xa, kê đơn thuốc điện tử, đặt lịch khám online,… trong thời gian ngắn đã chứng minh khả năng tiếp thu công nghệ nhanh chóng của đội ngũ này. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai ứng dụng khám, chữa bệnh từ xa (telemedicine), kết nối các bác sĩ tại trạm y tế với đội ngũ bác sĩ chuyên khoa tại các bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tuyến cuối. Mô hình này đã được ngành Y tế thành phố áp dụng hiệu quả trong nhiều năm qua.

Về cơ bản, đội ngũ cán bộ y tế đều có nền tảng kiến thức về công nghệ thông tin khá tốt. Phần lớn cán bộ y tế hiện nay, nhất là những người được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng y dược trong 10-15 năm gần đây, đã được tiếp cận với tin học cơ bản trong chương trình học. Điều này giúp họ có nền tảng để dễ dàng tiếp cận các công cụ kỹ thuật số như phần mềm văn phòng, tra cứu y học trực tuyến, hoặc khai thác dữ liệu số phục vụ chuyên môn. Nhiều cán bộ y tế chủ động tham gia các khóa đào tạo, tập huấn về công nghệ số hoặc học hỏi qua các nền tảng trực tuyến. Họ sử dụng internet để tìm kiếm tài liệu chuyên môn, truy cập cơ sở dữ liệu y khoa quốc tế (như PubMed, Medline, WHO) và thậm chí khai thác các công cụ hỗ trợ chẩn đoán hoặc phân tích dữ liệu lâm sàng. Một số bệnh viện tuyến trên đã chứng minh được năng lực số vượt trội của đội ngũ nhân viên y tế qua việc triển khai thành công các hệ thống chăm sóc bệnh nhân từ xa, theo dõi chỉ số sinh tồn qua thiết bị đeo, hoặc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán hình ảnh và điều trị. Nhiều bác sĩ cũng sử dụng các công cụ mô phỏng 3D, chatbot y tế, phần mềm phân tích kết quả cận lâm sàng,… để hỗ trợ ra quyết định chuyên môn. Không ít cán bộ y tế đã chủ động tham gia vào các dự án chuyển đổi số, đề xuất giải pháp cải tiến quy trình làm việc và đóng góp ý kiến để hoàn thiện các phần mềm quản lý y tế. Họ cũng sử dụng mạng xã hội, diễn đàn chuyên môn, hoặc hệ thống học tập trực tuyến để trao đổi kinh nghiệm, mở rộng cộng đồng học tập nghề nghiệp và nâng cao năng lực liên tục. Như vậy, năng lực số của đội ngũ cán bộ y tế đã có nhiều điểm sáng, thể hiện qua khả năng thích ứng với công nghệ mới, sự chủ động học tập và ứng dụng hiệu quả vào công việc.

- Về hạn chế, tồn tại

Thứ nhất, nhận thức và thái độ của cán bộ y tế đối với chuyển đổi số còn hạn chế. Phần lớn cán bộ y tế đã nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và quản lý y tế. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng tiếp cận và áp dụng công nghệ còn chưa đồng đều. Một bộ phận cán bộ, đặc biệt ở tuyến cơ sở và vùng sâu vùng xa, vẫn còn tâm lý e ngại hoặc bị động trong việc sử dụng các ứng dụng, phần mềm y tế, do thiếu kiến thức nền tảng hoặc chưa được đào tạo bài bản.

Thứ hai, năng lực sử dụng công nghệ và phần mềm y tế chưa cao. Trong thực tế triển khai, nhiều cán bộ y tế vẫn gặp khó khăn khi sử dụng các phần mềm quản lý bệnh viện (HIS), hệ thống hồ sơ sức khỏe điện tử (EHR), phần mềm kê đơn thuốc điện tử hoặc nền tảng hội chẩn từ xa. Các thao tác đơn giản như cập nhật thông tin bệnh nhân, nhập dữ liệu xét nghiệm, khai thác hồ sơ bệnh án số,... còn chậm và dễ xảy ra sai sót.

Thứ ba, chênh lệch giữa các tuyến và vùng miền. Một trong những thách thức nổi bật là sự không đồng đều về năng lực số giữa các nhóm cán bộ y tế. Ở tuyến trung ương và các bệnh viện lớn, nơi được đầu tư hạ tầng và có điều kiện tiếp cận công nghệ tốt hơn, cán bộ y tế có trình độ sử dụng công nghệ cao hơn. Trong khi đó, ở tuyến huyện, xã, đặc biệt tại các tỉnh miền núi, biên giới, đồng bằng sông Cửu Long,… nhiều cán bộ y tế chưa được đào tạo kỹ năng số hoặc thiếu thiết bị, điều kiện để thực hành công nghệ.

Thứ tư, hạn chế trong đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng số. Các chương trình đào tạo cán bộ y tế hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào chuyên môn y khoa, trong khi nội dung về công nghệ thông tin và kỹ năng số còn hạn chế, không cập nhật thường xuyên hoặc thiếu tính thực tiễn. Đào tạo kỹ năng số thường chỉ được tổ chức dưới dạng tập huấn ngắn hạn, chủ yếu để giới thiệu hệ thống phần mềm mới, chứ chưa xây dựng được chương trình đào tạo có hệ thống, theo chuẩn năng lực số cụ thể. Ngoài ra, thiếu cơ chế đánh giá năng lực số cũng là một tồn tại phổ biến. Hiện chưa có bộ tiêu chí hoặc khung năng lực số chính thức áp dụng cho cán bộ y tế, dẫn đến khó khăn trong việc xác định nhu cầu đào tạo, phân loại kỹ năng và quản lý nhân lực phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số.

Thứ năm, thiếu hỗ trợ và hạ tầng kỹ thuật. Việc thiếu hụt hạ tầng công nghệ, thiết bị công nghệ lỗi thời, mạng internet chậm hoặc không ổn định... cũng góp phần cản trở việc phát triển và ứng dụng năng lực số tại các cơ sở y tế. Cán bộ y tế dù có năng lực cũng khó phát huy nếu thiếu các công cụ, thiết bị cần thiết hoặc phải làm việc trong môi trường không thuận lợi.

2.3. Giải pháp phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế trong bối cảnh chuyển đổi số trong thời gian tới

Trong xu thế chuyển đổi số toàn diện của ngành Y tế, phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, đóng vai trò nền tảng để nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả quản lý và khả năng tiếp cận y tế cho người dân. Do vậy, trong thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ y tế về chuyển đổi số và phát triển kỹ năng số. Để nâng cao nhận thức và phát triển kỹ năng số cho cán bộ y tế, cần triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về chuyển đổi số, tập trung vào vai trò và lợi ích của công nghệ trong y tế. Song song đó, tổ chức các hội thảo, tọa đàm và chiến dịch truyền thông nội bộ nhằm tăng cường hiểu biết, tạo sự đồng thuận và thúc đẩy tinh thần đổi mới. Đồng thời, xây dựng môi trường làm việc khuyến khích học hỏi, áp dụng công nghệ mới, giúp cán bộ y tế tự tin, chủ động tiếp cận và làm chủ các kỹ năng số trong thực tiễn.

Hai là, xây dựng và ban hành khung năng lực số chuyên biệt cho ngành y tế. Việc phát triển năng lực số cần có định hướng rõ ràng và cơ sở pháp lý vững chắc. Do đó, Bộ Y tế cần phối hợp với các bộ ngành liên quan, các chuyên gia công nghệ và giáo dục y khoa để xây dựng khung năng lực số cho cán bộ y tế, áp dụng theo từng vị trí công việc (bác sĩ, điều dưỡng, cán bộ quản lý, kỹ thuật viên, nhân viên hành chính y tế…). Khung năng lực này cần phân cấp theo trình độ (cơ bản, trung cấp, nâng cao), làm cơ sở cho việc thiết kế chương trình đào tạo, đánh giá năng lực và chuẩn hóa chất lượng đội ngũ.

Ba là, tích hợp nội dung chuyển đổi số vào chương trình đào tạo y khoa và đào tạo liên tục. Các cơ sở đào tạo ngành y cần cập nhật chương trình đào tạo chính quy, lồng ghép nội dung về công nghệ số, tin học y tế, quản lý dữ liệu bệnh nhân, trí tuệ nhân tạo trong chẩn đoán và điều trị, an ninh thông tin y tế,… vào giảng dạy lý thuyết và thực hành lâm sàng. Bên cạnh đó, hình thức đào tạo liên tục cho cán bộ đang công tác cần được mở rộng với nội dung cập nhật, thiết kế linh hoạt, theo hướng học tập suốt đời, ứng dụng thực tiễn cao. Các khóa học có thể triển khai qua nền tảng e-learning, kết hợp đánh giá trực tuyến nhằm tạo điều kiện tiếp cận cho cán bộ tại các địa phương, tuyến y tế cơ sở.

Bốn là, tăng cường đào tạo theo nhu cầu và phân tầng kỹ năng số cho cán bộ y tế. Thay vì đào tạo đại trà, cần thực hiện khảo sát thực tế tại từng tuyến y tế để xác định mức độ thiếu hụt năng lực số, từ đó thiết kế chương trình đào tạo theo nhu cầu, có tính cá nhân hóa. Các lớp đào tạo nên phân tầng: cấp cơ sở tập trung vào kỹ năng sử dụng phần mềm HIS, nhập liệu bệnh án điện tử; cấp chuyên khoa hướng đến phân tích dữ liệu, hỗ trợ lâm sàng bằng AI; cấp quản lý tập trung vào kỹ năng điều hành, đánh giá dữ liệu và ra quyết định trên môi trường số.

Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ trong chính hoạt động đào tạo và bồi dưỡng. Quá trình nâng cao năng lực số cho cán bộ y tế nên chính là một minh chứng cho việc ứng dụng công nghệ. Cần triển khai các nền tảng học tập số thông minh, hệ thống LMS (Learning Management System), video mô phỏng quy trình khám chữa bệnh trên hệ thống số, lớp học tương tác ảo,… để giúp cán bộ làm quen với môi trường số ngay trong quá trình học. Việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào hệ thống học tập cá nhân hóa cũng là một hướng đi tiềm năng.

Sáu là, thiết lập hệ thống đánh giá, cấp chứng nhận năng lực số. Một hệ thống đánh giá năng lực số định kỳ, khách quan và minh bạch sẽ góp phần thúc đẩy cán bộ y tế chủ động học tập, nâng cao trình độ. Các hình thức đánh giá có thể kết hợp trắc nghiệm trực tuyến, thực hành mô phỏng và đánh giá tại nơi làm việc. Đồng thời, nên ban hành chứng chỉ năng lực số có giá trị trong hệ thống công vụ và xét tuyển, bổ nhiệm, giúp đưa năng lực số trở thành một trong các tiêu chí quan trọng trong quản lý nhân lực ngành Y tế.

Bảy là, đảm bảo hạ tầng công nghệ và môi trường làm việc số hóa. Phát triển năng lực số không thể tách rời việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Do đó, cần ưu tiên nâng cấp hệ thống mạng, máy tính, thiết bị đầu cuối và phần mềm quản lý tại các cơ sở y tế, đặc biệt là ở tuyến xã, phường. Đồng thời, cần xây dựng môi trường làm việc có tính số hóa cao, trong đó toàn bộ quy trình chuyên môn, hành chính đều được tích hợp trên hệ thống số để cán bộ có cơ hội sử dụng và nâng cao kỹ năng thường xuyên.

Tám là, khuyến khích đổi mới sáng tạo và chia sẻ tri thức số trong ngành Y. Cuối cùng, để năng lực số thực sự trở thành một phần trong văn hóa nghề nghiệp, ngành Y tế cần thúc đẩy các hoạt động học tập chia sẻ nội bộ, khuyến khích cán bộ y tế đóng góp sáng kiến công nghệ, cải tiến quy trình làm việc trên nền tảng số. Các cuộc thi, diễn đàn chuyên môn trực tuyến, cộng đồng học tập số cần được phát triển mạnh mẽ, trở thành nơi trao đổi, cập nhật kiến thức và lan tỏa tinh thần số hóa trong toàn ngành.

3. Kết Luận

Việc phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ y tế không chỉ là một yêu cầu tất yếu của chuyển đổi số, mà còn là một quá trình đầu tư cho chất lượng và sự bền vững của hệ thống y tế. Trong tiến trình đó, đội ngũ cán bộ y tế giữ vai trò trung tâm, quyết định sự thành công của các chương trình số hóa. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy năng lực số của lực lượng này còn chưa đồng đều, đặc biệt tại tuyến y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa. Việc phát triển năng lực số cho cán bộ y tế đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện, từ xây dựng khung năng lực, đổi mới chương trình đào tạo, tăng cường hạ tầng công nghệ, đến thiết lập hệ thống đánh giá và cơ chế khuyến khích phù hợp. Phát triển năng lực số không chỉ là đầu tư cho nguồn nhân lực y tế hiện tại, mà còn là nền tảng để xây dựng một hệ thống y tế thông minh, hiện đại, lấy người bệnh làm trung tâm. Đây là bước đi tất yếu để ngành Y tế Việt Nam thích ứng với thời đại số, từng bước hội nhập và phát triển bền vững trong giai đoạn mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Y tế (2020), Quyết định số 5316/QĐ-BYT ngày 22/12/2020 phê duyệt chương trình chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

[2]. Ban Cán sự Đảng bộ Y tế (2023), Nghị quyết số 157-NQ/BCSĐ ngày 3/2/2023 “Về chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

[3]. Nguyễn Thị Phương Thùy (2023), Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam, Tạp chí Công Thương, 26 (12), truy cập tại https://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-nguon-nhan-luc-nganh-y-te-viet-nam-102333.htm 

[4]. Bộ Y tế (2024), Báo cáo số 11/BC-BYT ngày 04/01/2024 về việc tổng kết công tác y tế năm 2023 và nhiệm vụ, giải pháp năm 2024.

Enhancing digital capability for health workers in the context of healthcare digital transformation

 

LE HAI YEN

Hai Duong Medical Technical University

 

ABSTRACT:

This study focuses on analyzing the role and importance of digital ability development for health workers in the context of digital transformation of the health sector today. Through the assessment of the current situation, the study points out the current limitations in digital skills, awareness and the ability to apply technology in professional work. From there, the study proposes solutions to develop digital capacity for health workers in the current digital transformation context. The development of digital capability not only contributes to improving the quality of health services but is also the foundation for promoting effective and sustainable health digital transformation.

Keywords: digital ability, health workers, digital transformation.

Tạp chí Công Thương