Tác động của sản phẩm điểm đến du lịch đến nhận thức của khách du lịch

Bài báo nghiên cứu "Tác động của sản phẩm điểm đến du lịch đến nhận thức của khách du lịch" do TS. Trần Hữu Ái (Trường Đại học Văn Hiến) thực hiện.

Tóm tắt:

Nghiên cứu xem xét tài liệu và xác định 2 thành phần phụ của sản phẩm điểm đến, sau đó tiến hành xem xét tầm quan trọng của chúng theo cảm nhận của khách du lịch. Việc thử nghiệm mô hình khái niệm được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu thứ cấp liên quan đến các chuyến thăm tới một điểm đến hàng đầu của Việt Nam, liên quan đến nhận thức của du khách về chất lượng, giá trị và ý định quay lại. Kết quả cho thấy, tất cả 7 giả thuyết đều được ủng hộ, mặc dù sức mạnh của các yếu tố môi trường nói chung và chất lượng dường như quan trọng hơn các yếu tố khác trong thử nghiệm này.

Từ khóa: sản phẩm điểm đến du lịch, môi trường, cơ sở hạ tầng, chất lượng, giá trị, có ý định quay trở lại, khách du lịch.

1. Đặt vấn đề

Sự cạnh tranh ngày càng tăng đối với khách du lịch giữa các điểm đến quốc tế đã nhấn mạnh quan niệm về chất lượng và giá trị thương hiệu là những yếu tố quan trọng có thể khiến việc tham quan một địa điểm trở nên hấp dẫn hơn (Stevens, 1992). Chất lượng và giá trị thường được coi là vấn đề liên quan đến việc quản lý các sản phẩm bán lẻ. Tuy nhiên, việc áp dụng trước đây “khái niệm sản phẩm” và “vòng đời” của nó vào việc quản lý các điểm đến du lịch khiến những vấn đề chiến lược này trở nên phù hợp với các nhà nghiên cứu cũng như các nhà thực hành du lịch (Butler, 1980). Thật vậy, các nhà quản lý của những điểm đến quốc tế đang bước vào giai đoạn hậu trưởng thành [suy thoái], với sức hấp dẫn giảm dần và số lượng du khách giảm dần, sẽ thấy nghiên cứu về các vấn đề sản phẩm như vậy đặc biệt thuyết phục. Grabler (1997) đã lưu ý trong nghiên cứu vòng đời của 43 điểm đến ở thành phố châu Âu. Điều quan trọng là phải phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến chu kỳ hoặc hậu quả của nó. Bất kể mối quan hệ ngẫu nhiên của chúng với vòng đời theo hướng nào, những mối tương quan đó tạo thành thông tin quản lý quan trọng.

Chất lượng và giá trị là những khái niệm có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách trẻ hóa sản phẩm và cách khách hàng nhìn nhận chúng. Một số tổ chức tiếp thị điểm đến đã nhấn mạnh chất lượng và giá trị là mục tiêu quan trọng để phục hồi ngành du lịch đang suy thoái của họ. Ví dụ, gần đây đã ghi nhận một số sáng kiến của chính phủ với phố cổ Hội An, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành và số lượng người đến thăm, bằng cách phát triển ý thức về “chất lượng” trong trải nghiệm của du khách (O'Neill & McKenna, 1994). Mặc dù các nhà quản lý điểm đến ở quốc gia này tập trung vào chất lượng nhưng việc nghiên cứu về Quần đảo Phú Quốc lại được ưu tiên. Nhận thức về giá trị là mục tiêu chính để tăng sức hấp dẫn của các điểm đến trên đảo này đối với khách du lịch (Choy, 1992).

Các khái niệm và định nghĩa về điểm đến, chất lượng và giá trị có phần mơ hồ trong các tài liệu du lịch do số lượng lớn và người sử dụng các thuật ngữ này rất đa dạng, mỗi thuật ngữ đều có những ưu tiên tương ứng. Dựa trên các mô hình phát triển du lịch khác nhau do Pearce (1989) vạch ra, người ta đề xuất định nghĩa điểm đến là sự kết hợp của các sản phẩm và dịch vụ sẵn có tại một địa điểm, có thể thu hút du khách từ bên ngoài giới hạn không gian của nó. Chất lượng được xem như một đặc điểm phân biệt tích cực, mà theo Berry và Parasuraman (1991) là “nền tảng cho tiếp thị dịch vụ vì sản phẩm cốt lõi (điểm đến) được tiếp thị là hiệu quả hoạt động”.

2. Cơ sở lý thuyết

Một số nhà nghiên cứu du lịch đã cố gắng làm rõ bản chất của sản phẩm du lịch. Một số cách tiếp cận này đã kết hợp bên cung và bên cầu để mô tả cách thức nhiều thành phần của điểm đến tương tác với khách du lịch trong chuyến đi của họ. Ví dụ, Murphy (1985) đánh đồng điểm đến với thị trường, nơi các đặc điểm cung và cầu chen lấn để giành được sự chú ý và tiêu dùng. Mô hình Hệ thống du lịch của Gunn (1988) biểu thị sản phẩm du lịch như một trải nghiệm tiêu dùng phức tạp, là kết quả của một quá trình trong đó khách du lịch sử dụng nhiều dịch vụ du lịch trong suốt chuyến tham quan của họ (thông tin, vận chuyển, chỗ ở và các dịch vụ thu hút). Smith (1994) cũng thừa nhận vai trò của các dịch vụ du lịch như vậy trong việc tạo ra trải nghiệm sản phẩm và mô tả mức độ đa dạng của các dịch vụ này. Đầu vào từ điểm đến có thể tạo ra đầu ra trải nghiệm cho khách du lịch. Chưa bao giờ, du lịch đó không chỉ là một loạt các yếu tố đầu vào, mà còn là một trải nghiệm theo đúng nghĩa của nó.

Một điểm đến có thể được xem như là sự kết hợp của các sản phẩm riêng lẻ và các cơ hội trải nghiệm kết hợp lại để tạo thành trải nghiệm tổng thể về khu vực đã ghé thăm. Một nghiên cứu cụ thể (Mo, Howard & Havitz, 1993) cho thấy môi trường của điểm đến là yếu tố chính (ví dụ như các đặc điểm xã hội và văn hóa) và cơ sở hạ tầng dịch vụ của điểm đến là yếu tố phụ (ví dụ như dịch vụ vận chuyển, ăn uống và lưu trú) theo mong muốn trải nghiệm của khách du lịch quốc tế về sản phẩm điểm đến. Quả thực, như Watson và Kopachevsky (1994) đã lập luận, trải nghiệm dịch vụ du lịch không thể được hiểu một cách đúng đắn, trừ khi chúng ta tính đến bối cảnh và bối cảnh rộng lớn hơn.

Tầm quan trọng của bầu không khí đối với trải nghiệm du lịch gắn liền với hình ảnh điểm đến, được Kotler và cộng sự (1993) định nghĩa là “tổng hợp những niềm tin, ý tưởng và ấn tượng mà một người có về một địa điểm”. Do đó, các lực lượng nhân khẩu học, kinh tế, tự nhiên, công nghệ, chính trị và văn hóa mà một số người tin rằng có tác động đến trải nghiệm và cảm nhận của du khách về điểm đến (Ward & Russell, 1981). Theo nghĩa này, một số đặc điểm vật lý, xã hội, văn hóa, công nghệ, chính trị và kinh tế của một điểm đến phát triển tác động môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức và trải nghiệm của khách du lịch (Russell & Pratt,1980).

Đồng ý với Smith, người ta cho rằng các yếu tố vật chất của điểm đến có thể bao gồm các đặc điểm như địa điểm hoặc cơ sở, tài nguyên thiên nhiên như địa hình đẹp, hệ động vật hoặc điều kiện vật chất như thời tiết (Buckley, 1994). Mức độ, việc sử dụng hoặc thiếu cơ sở hạ tầng và công nghệ tại một điểm đến (ví dụ: cung cấp nước và điện, sử dụng công nghệ máy tính và truyền thông,...) cũng là những đặc điểm dễ thấy của các sản phẩm du lịch phát triển và kém phát triển có thể ảnh hưởng đến cảm nhận của du khách về kinh nghiệm chuyến đi (Choy, 1992)

Văn hóa là một yếu tố quan trọng khác hình thành nên nhiều trải nghiệm du lịch. Văn hóa, lịch sử, thể chế và phong tục địa phương đích thực có thể mang lại trải nghiệm phong phú cho khách du lịch (Prentice, 1993). Cuối cùng, khía cạnh chính trị là một yếu tố quan trọng khác góp phần tạo nên bản chất của sản phẩm điểm đến. Ví dụ, sự ổn định chính trị, chính sách đối ngoại hoặc chính sách của chính phủ về các vấn đề quan trọng như nhân quyền hoặc bầu cử dân chủ có thể quyết định nhận thức và hành vi của khách du lịch. Hơn nữa, sự kiểm soát của chính phủ, khả năng đáp ứng với du lịch và cách đối xử với khách du lịch (ví dụ: xin thị thực, cảng nhập cảnh, hỗ trợ của ngành, điều kiện nhập cảnh cụ thể,...) cũng có thể ảnh hưởng đến môi trường điểm đến mà khách du lịch trải nghiệm.

3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu

3.1. Mô hình nghiên cứu

Giả định tiềm ẩn thúc đẩy cuộc điều tra này là các thuộc tính và tác động nhất định của điểm đến có thể ảnh hưởng đến trải nghiệm và nhận thức của khách du lịch về chất lượng và giá trị. Trong khi cuộc thảo luận trước đây đã phác thảo bản chất chung của một điểm đến, giờ đây chúng ta chuyển sang xem xét trải nghiệm của khách du lịch, cũng như các khái niệm về chất lượng và giá trị.

3.1.1. Chất lượng chuyến đi

Công trình trước đây về chất lượng dựa trên lý thuyết kỳ vọng của Lewin và sử dụng mô hình tiêu dùng đã được thiết lập do Parasuraman và cộng sư, 1985) phát triển. Trong bối cảnh du lịch, nhận thức về chất lượng được cho là phản ánh đánh giá tóm tắt tích cực về trải nghiệm chuyến đi. Điều này phần lớn dựa trên hiệu suất của sản phẩm và mức độ đáp ứng thỏa đáng mong đợi của khách du lịch trong lịch sử các chuyến đi. Carlzon (1987) mô tả sự tương tác với khách hàng này bao gồm “hàng triệu khoảnh khắc sự thật”. Mỗi khoảnh khắc thực tế gặp phải với môi trường điểm đến và cơ sở hạ tầng dịch vụ của nó sẽ trở thành một sợi dây đan xen vào cảm nhận chung của khách du lịch về chất lượng chuyến đi. Quả thực, những cuộc gặp gỡ càng tích cực thì cảm giác về chất lượng càng mạnh mẽ.

Một số nhà nghiên cứu du lịch chủ yếu nghĩ rằng nhận thức về chất lượng bắt nguồn hoàn toàn từ việc tiếp xúc với cơ sở hạ tầng dịch vụ. Tuy nhiên, điều này có thể không phải như vậy. Trong bối cảnh người tiêu dùng, Gotlieb và cộng sự (1994) nhận thấy cả khía cạnh trọng tâm (dịch vụ) và bối cảnh (môi trường) của sản phẩm đều đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chất lượng. Phát hiện này ủng hộ các giả thuyết cho rằng cả môi trường vĩ mô và cơ sở hạ tầng dịch vụ của điểm đến đều ảnh hưởng đến nhận thức của khách du lịch về chất lượng.

3.1.2. Giá trị chuyến đi

Giá trị chuyến đi cảm nhận cũng được cho là một đánh giá nhận thức. Morrison (1989), mô tả giá trị là ước tính tinh thần mà người tiêu dùng đưa ra về sản phẩm du lịch, trong đó nhận thức về giá trị được rút ra từ đánh giá chi phí/lợi ích cá nhân. Theo nghĩa này, thời gian hoặc tiền bạc đầu tư vào một chuyến đi được so sánh với (các) kinh nghiệm thu được từ chuyến thăm đó. Tác phẩm của Steven's (1992) lưu ý nhận thức về giá trị nảy sinh từ việc đánh giá hàng hóa và dịch vụ được mua tại điểm đến. Tuy nhiên, điều này chỉ phản ánh liệu du khách đến Canada có nghĩ rằng khoản đầu tư tài chính (tức là dựa trên giá cả) của họ có đáng giá hay không. Một khía cạnh khác của giá trị chuyến đi được xem xét liệu thời gian đầu tư cho chuyến tham quan (trải nghiệm) có đáng giá hay không.

Ngược lại với điều tra của Stevens, bài báo của Choy (1992) về Quần đảo Thái Bình Dương lưu ý nhận thức về giá trị không chỉ dựa trên cơ sở hạ tầng của điểm đến mà các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến những đánh giá này. Murphy và Pritchard (1999) đã chứng minh các yếu tố khác có thể và thực sự làm thay đổi nhận thức về giá trị. Phát hiện của họ cung cấp bằng chứng cụ thể rằng cả cơ sở hạ tầng dịch vụ và môi trường điểm đến xét về mặt điều kiện thời tiết đều có tác động tích cực đến việc xác định giá trị chuyến đi. Ví dụ, trong mùa thấp điểm mùa đông, nhận thức của du khách địa phương về giá trị chuyến đi tương đối không bị ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng dịch vụ hạn chế và giá chiết khấu đi kèm. Trong khi đó, nhận thức về giá trị của du khách quốc tế bị ảnh hưởng tiêu cực bởi môi trường vào mùa thấp điểm và thực tế là thời tiết, các điểm tham quan thể chất và xã hội không ở trạng thái tốt nhất, bất kể mức giảm giá được đưa ra. Tác giả tin rằng có thể đạt được sự hiểu biết toàn diện hơn về giá trị chuyến đi bằng cách xem xét cả hai tác động này.

Tuy nhiên, các mô hình nhận thức tương tự của Gotlieb và cộng sự (1994) đi xa hơn và xem xét mối quan hệ tiềm ẩn giữa những nhận thức (chất lượng và giá trị) này với hành vi của người tiêu dùng. Nghiên cứu của họ cho thấy mối liên hệ nhân quả tiếp theo giữa chất lượng, giá trị và ý định mua lại.

Bởi vì giá trị là sự so sánh về giá cả, chất lượng, nên chất lượng cũng được cho là công cụ hình thành nhận thức về giá trị (Zeithalm, 1988). Theo nghĩa này, khi khách du lịch có cảm nhận về chất lượng chuyến đi, nhận thức của họ về giá trị chuyến đi cũng được cho là sẽ được nâng cao. Hơn nữa, nhận thức về chất lượng được phỏng đoán có ảnh hưởng trực tiếp đến ý định mua hàng lặp lại. Những sản phẩm điểm đến không đáp ứng được mong đợi về chất lượng của khách du lịch sẽ ít có khả năng được quay lại (mua lại) hơn những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu đó. Mặc dù ban đầu không đưa ra giả thuyết, Chang và Wildt (1991) đã tìm thấy mối quan hệ trực tiếp giữa chất lượng và ý định mua hàng ngoài tác động gián tiếp được mong đợi thông qua giá trị cảm nhận.

Dựa trên nghiên cứu của người tiêu dùng và công việc của Stevens, giá trị cảm nhận cũng được cho là yếu tố quyết định quan trọng đến việc liệu khách du lịch có ý định quay lại và ghé thăm điểm đến lần nữa hay không. Murphy và Pritchard (1999) nhận thấy ý thức cao về giá trị chuyến đi tương ứng với ý định quay lại điểm đến của khách du lịch. Chắc chắn, khái niệm du khách quay trở lại là thước đo kết quả quan trọng để các tổ chức tiếp thị điểm đến xem xét (Gitelson và Crompton, 1984). Tất cả các doanh nghiệp, bao gồm cả các điểm đến, đều cố gắng tạo dựng lòng trung thành của khách hàng. Hơn nữa, hiểu được sức mạnh của việc đánh giá chất lượng và giá trị trong hành vi thay đổi của khách du lịch có thể mang lại thông tin chiến lược hữu ích. 

Hình: Mô hình khái niệm về mối quan hệ giữa môi trường và cơ sở hạ tầng của điểm đến với chất lượng, giá cả và ý định quay lại

DU LICH

Nguồn: Tác giả đề xuất

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Một bộ dữ liệu hiện có liên quan đến điểm đến chính ở Phú Quốc đã được sử dụng. Mô hình khái niệm đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các cuộc khảo sát du khách vào mùa hè và mùa thu năm 2023 do Công ty Du lịch Phú Quốc, hiệp hội điểm đến địa phương, thực hiện. Khảo sát du khách là một khảo sát mẫu thuận tiện về việc rời đi được thực hiện định kỳ qua các năm và mùa để đánh giá trải nghiệm của khách du lịch tại khu vực Phú Quốc.

Bộ dữ liệu khảo sát du khách năm 2023 bao gồm 308 khảo sát đã hoàn thành, nhưng người ta cảm thấy chỉ một phần có liên quan đến các câu hỏi được đề cập trong bài viết này. Tập trung vào khả năng quay lại điểm đến của du khách, người ta quyết định kiểm tra những du khách sống gần Phú Quốc, thay vì những du khách ở xa, những người có thể coi điểm đến là cơ hội chỉ có một lần trong đời.

Các cấu trúc được mô hình hóa của Hình 1 đã được vận hành bằng cách sử dụng nhiều chỉ báo từ tập dữ liệu, tất cả đều được đánh giá theo định dạng thang đo Likert năm điểm từ hoàn toàn đồng ý đến hoàn toàn không đồng ý. Các biến này được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu về du lịch và người tiêu dùng trong quá khứ. Ví dụ: Ý định quay trở lại được đo lường ở Phú Quốc trong 2 mục câu hỏi phản ánh ý định quay lại và ý định quay lại các điểm đến khác ở các điểm du lịch khác ở Việt Nam trong vòng 2 năm.

   Những câu hỏi này được ngành Du lịch Phú Quốc sử dụng trùng khớp với việc thu thập dữ liệu quốc gia và hiểu rằng đây là khung thời gian hợp lý để tiết lộ ý định trở lại của khách hàng. Giá trị chuyến đi được đo lường bằng 4 mục phản ánh nhận thức của du khách về giá trị cho chuyến đi, giá trị đồng tiền bỏ ra, giá cả hợp lý và giá trị so với các điểm đến ở Việt Nam vốn là đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực của Phú Quốc. Chất lượng điểm đến được đo lường bằng 2 mục phản ánh đánh giá của du khách về sự hài lòng tổng thể của họ với các điểm đến và chất lượng so với các điểm đến ở Việt Nam; một lần nữa phản ánh sự so sánh của du khách giữa các điểm đến cạnh tranh. Nhận thức của người trả lời về 3 khía cạnh của cơ sở hạ tầng du lịch của Phú Quốc đã được thể hiện trong nghiên cứu thông qua đánh giá của họ là hoàn toàn đồng ý và hoàn toàn không đồng ý. Các biến này được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu về du lịch và người tiêu dùng trong quá khứ. Ví dụ: Ý định quay trở lại được đo bằng 2 câu hỏi phản ánh ý định quay trở lại thức ăn ngon, điểm tham quan thú vị và khách sạn tốt.

Dữ liệu thu được được phân tích bằng phương pháp bình phương tối thiểu, Phân tích hồi quy tuyến tính, là một kỹ thuật phân tích thế hệ thứ hai ước tính đồng thời các thông số đo lường và cấu trúc (Barclay và cộng sự 1995).

4. Kết quả và thảo luận

Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính được đánh giá bằng cách sử dụng phương pháp được Fornell và Larcker (1981) ủng hộ và chúng đã chứng minh được độ tin cậy và giá trị có thể chấp nhận được. Độ tin cậy của hạng mục hầu như đạt yêu cầu, vì số lượng thước đo trên các cấu trúc tương ứng của chúng thường cao hơn 0,70 (Bảng 1). Độ tin cậy của cấu trúc được đánh giá bằng cách sử dụng thước đo độ tin cậy và độ giá trị của tính nhất quán bên trong có thể được hiểu là tương tự như Cronbach's Alpha. Tính nhất quán bên trong dao động từ 0,79 đến 0,96, cao hơn nhiều so với hướng dẫn của Nunnally (1978) về khả năng chấp nhận.

Bảng 1. Kết quả đo lường

DU LICH

Ngoại trừ Môi trường, các thước đo đã chứng minh tính giá trị hội tụ vì phương sai trung bình của các biến biểu hiện được trích xuất bởi các cấu trúc (AVE) ít nhất là 0,57, cho thấy có nhiều phương sai được giải thích hơn so với những biến không giải thích được trong các biến liên quan đến một cấu trúc nhất định. AVE cho Môi trường thấp (0,42) chủ yếu do hạng mục "thành phố sạch" không được coi là một yếu tố mạnh mẽ về môi trường của đảo Phú Quốc như các hạng mục khác trong thang đo. Cuối cùng, giá trị phân biệt được thấy rõ ràng ở chỗ phương sai trung bình được trích xuất bởi các cấu trúc lớn hơn mối tương quan bình phương giữa các cấu trúc, do đó mối quan hệ giữa các thước đo và cấu trúc mạnh hơn mối quan hệ giữa các cấu trúc. Các kết quả đo được coi là đủ mạnh để đảm bảo đánh giá mô hình cấu trúc. 

Bảng 2. Kết quả cơ cấu

DU LICH

Các kết quả mang tính cấu trúc đầy đủ được trình bày trong Bảng 2 và đều thú vị, ủng hộ giá trị của khái niệm điểm đến tổng thể. Các hệ số đường dẫn, được giải thích giống như các beta được tiêu chuẩn hóa, cho thấy sức mạnh của mối quan hệ trực tiếp giữa các cấu trúc. Tất cả các hệ số đường dẫn được tìm thấy có ý nghĩa ở mức 0,01 bằng cách sử dụng.

5. Kết luận

Bài viết này đã cố gắng tích hợp một số khái niệm từ các tài liệu liên quan đến điểm đến và môi trường ngành dịch vụ vào một mô hình khái niệm toàn diện hơn về sản phẩm điểm đến. Nó tiến hành kiểm tra các cấu trúc đã được xác định trong mô hình đó về mối quan hệ của chúng với chất lượng, giá trị và ý định quay trở lại của khách du lịch. Bằng cách này, mô hình và phân tích có thể được xem như một công cụ chẩn đoán khả năng cạnh tranh của điểm đến.

Cần nhấn mạnh rằng đây là một nghiên cứu thăm dò sử dụng dữ liệu hiện có để khám phá một số biến số quan trọng tác động đến nhận thức của người tiêu dùng về khả năng cạnh tranh của sản phẩm/điểm đến. Khả năng cạnh tranh đã được kiểm tra bằng sự sẵn lòng quay lại của khách du lịch và việc xây dựng mô hình liên quan đến mục tiêu đó đã được chứng minh là phù hợp trong bối cảnh này. Tuy nhiên, cần phải làm nhiều việc hơn nữa trước khi có thể đưa ra những mối quan hệ và tuyên bố cụ thể hơn liên quan đến nhận thức của khách du lịch về sản phẩm điểm đến. Theo nghiên cứu này, cả hai đều có tác động mạnh mẽ đến nhận thức của khách du lịch về chất lượng và giá trị, từ đó ảnh hưởng đến đánh giá của họ về khả năng cạnh tranh của điểm đến.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Barclay D., Higgins C., & Thompson R. (1995). The partial least squares (PLS) approach to causal modeling, personal computer adoption and use as an illustration. Technology Studies, 2, 285-309.
  2. Buckley R. A. (1994). Framework for ecotourism. Annals of Tourism Research, 21(3), 661-669.
  3. Butler R. W. (1980). The concept of a tourism area cycle of evolution: Implications for management of resources. Canadian Geographer, 24, 5-12.
  4. Carlzon J. (1987). Moments of truth. New York: Harper and Row.
  5. Chang T. Z., & Wildt A. R. (1994). Price, products information and purchase intention: An empirical study. Journal of the Academy of Market. Science, 22(1), 16-27.
  6. Choy D. J. L. (1992). Life cycle models for Pacific Island destinations.
  7. Journal of Travel Research, 30, 26-31.
  8. Fornell C., & Larcker D. F. (1981). Evaluating structural equation models with unsolvable variables and measurement error. Journal Marketing Research, 18, 39-50.
  9. Gotlieb J.B., Grewal D., Brown S.W. (1994). Consumer satisfaction and perceived quality: Complementary or divergent constructs?. Journal of Applied Psychology, 79(6), 875-885.
  10. Grabler K. (1997). Cities and the destination life cycle. In J. A. Mazanec. International city tourism (54-71). London: Printer.
  11. Gitelson D. M., and Crompton, J. L. (1984). Insights into the repeat vacation phenomenon. Annals of Tourism Research, 11.
  12. Gunn C. A. (1988). Tourism planning (2nd end.). New York: Taylor and Francis.
  13. Kotler P., Haider D. H., & Rein I. (1993). Marketing places. New York: Free Press.
  14. Mo C., Howard D. R., & Havitz M. E. (1993). Testing an international tourist role typology. Annals of Tourism Research, 20(2), 319-335.
  15. Morrison A. P. (1989). Shame: The underside of narcissism. Analytic Press, Inc.
  16. Murphy P. E., & Pritchard M. P. (1999). Destination price-value perceptions: An examination of origin and seasonal influences. Journal of Research Travel, 35, 16-22.
  17. O'Neill M. A., & McKenna M. A. (1994). Northern Ireland tourism: quality perspective. Managing Service Quality, 4(2), 31-35.
  18. Parasuraman A., Zeithaml V. A., & Berry L. L. (1985). A conceptual model of service quality and its implications for future research. Journal of Marketing, 49, 41-50.
  19. Pearce D. (1989). Tourist development. New York: Wiley.
  20. Phelps A. (1986). Holiday destination image the problem of assessment. Tourism Management, 7(3), 168-180.
  21. Prentice R. (1993). Heritage consumers in the leisure market: An application of the Manning-Haas demand hierarchy. Leisure Sciences, 273-290.
  22. Smith S. L. J. (1994). The tourism product. Annals of Tourism Research, 21(3), 582-595.
  23. Stevens B. F. (1992). Price value perceptions of travelers. Journal of Travel Research, 31, 44-48.
  24. Watson G. L., & Kopachevsky J. P. (1994). Interpretation of tourism as a commodity. Annals of Tourism Research, 21(3), 643}660.
  25. Zeithaml V. A. (1988). Consumer perceptions of price, quality and value: A means-ends model and synthesis of evidence. Journal of Marketing, 52-62.

 

The Impact of Destination Products on Tourist Perception

PhD. Tran Huu Ai

Van Hien University

ABSTRACT:

This study reviews the literature and identifies two sub-components of destination products, then proceeds to examine their importance as perceived by tourists. Testing of the conceptual model was conducted using secondary data relating to visit to a leading Vietnamese destination, regarding visitors' perceptions of quality, value and intention. come back. The results showed that all seven hypotheses were supported, although the strength of general environmental factors and quality appeared to be more important than other factors in this test.

Keywords: destination products, environment, the infrastructure, quality, value, intend to return.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 16 tháng 7 năm 2024]