Đánh giá lợi thế cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam hiện nay

ThS. Trần Bá Thọ - ThS. Nguyễn Hữu Lộc (Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Trong bối cảnh đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập sâu rộng với thế giới, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, nước ta đã và đang phải cạnh tranh ngày càng gay gắt trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề kinh tế, trong đó có ngành Dệt May - Da giày. Cho đến nay, vị thế của hai ngành này ngày càng được khẳng định trên thị trường tiêu thụ thế giới. Hiện nay sản phẩm may mặc và giày da có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì vị thế và nâng cao năng lực cạnh tranh của hai ngành này so với các quốc gia sản xuất cùng loại sản phẩm, đòi hỏi chúng ta cần phải nhìn nhận lại lợi thế cạnh tranh cũng như những mặt còn hạn chế của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam. Từ đó, chúng ta đưa ra các giải pháp góp phần giải quyết những khó khăn, mở đường cho sự phát triển hơn nữa của hai ngành này.

Từ khóa: Ngành Dệt May - Da giày, lợi thế cạnh tranh, các giải pháp.

1. Đặt vấn đề

Cùng với sản phẩm của các ngành Công nghệ thông tin, Công nghiệp điện tử, các sản phẩm của ngành Dệt May - Da giày cũng mang lại giá trị xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Hơn nữa ngành Dệt May - Da giày còn giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ngành Dệt May Việt Nam đóng góp 10% giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc, tạo công ăn việc làm cho 2,7 triệu lao động, chiếm tỷ lệ 25%  tổng số lao động trong ngành Công nghiệp, chiếm 5% trong tổng số lực lượng lao động. Theo số liệu của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, tính đến năm 2017, tổng số doanh nghiệp dệt may đạt gần 6000 doanh nghiệp. Trong khi đó, ngành Da giày là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đem lại giá trị kinh tế cao, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Cả nước hiện có gần 3000 doanh nghiệp hoạt động trong ngành Da giày với hơn 1 triệu lao động làm việc trong ngành Thuộc da và 500 nghìn lao động trong ngành Công nghiệp hỗ trợ. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành Da giày năm 2019 là 21,5 tỷ USD. Đó là những thành quả đạt trong thời gian vừa qua, nhưng hiện nay ngành Dệt May - Da giày chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia cùng sản xuất chung mặt hàng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải đánh giá chính xác thực trạng ngành Dệt May - Da giày Việt Nam hiện nay. Phân tích những lợi thế cạnh tranh của các ngành này có được và những bất lợi thế trong cạnh tranh so với các quốc gia khác, để từ đó đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm đưa các ngành này phát triển hơn nữa, nâng cao vị thế của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam trên thị trường thế giới.

- Mục đích nghiên cứu: Vấn đề đặt ra là chúng ta cần phân tích và đánh giá một cách toàn diện, chi tiết những lợi thế cạnh tranh quan trọng của hai ngành này với các nước khác sản xuất chung mặt hàng, từ đó đề ra các giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy ngành Dệt May - Da giày Việt Nam phát triển hơn nữa, đó là ý nghĩa thực tiễn nghiên cứu của bài viết.

- Phương pháp nghiên cứu trong bài viết này chủ yếu là dựa vào nguồn thông tin thứ cấp, thu thập số liệu thống kê có liên quan đến hoạt động của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam. Qua đó, tác giả sẽ phân tích đánh giá và đưa ra nhận xét để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

2. Khung lý thuyết về lợi thế cạnh tranh

2.1. Một số khái niệm

2.1.1. Cạnh tranh là gì?

Cạnh tranh là một khái niệm đã được đề cập, quan tâm và phát triển cũng như được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự, thể thao,… Ở mỗi giai đoạn, khái niệm này lại được trình bày theo những góc độ khác nhau. Trong bài này quan tâm tới khái niệm cạnh tranh kinh tế, đây là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế xã hội, vậy nên khi nhắc tới cạnh tranh, ta hiểu đó là cạnh tranh kinh tế. Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế: nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân… nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

2.1.2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia

Theo Viện Quốc tế về quản lý và phát triển thế giới (IMD), lợi thế cạnh tranh quốc gia là khả năng tạo ra giá trị gia tăng và nhờ đó làm giàu tài sản quốc gia. Còn theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), lợi thế cạnh tranh là khả năng nâng cao mức sống một cách nhanh và bền vững, tức là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, được đo lường bằng mức độ thay đổi trong thu nhập bình quân đầu người qua các năm.

Cơ sở của các phương pháp này được xác định bởi năng suất lao động thông qua GDP bình quân đầu người. Hai cơ quan này xác định năng lực cạnh tranh quốc gia qua 8 yếu tố: Mức độ mở cửa của nền kinh tế (gồm thương mại và đầu tư). Vai trò của chính phủ. Năng lực tài chính - tiền tệ. Kết cấu hạ tầng. Trình độ khoa học - công nghệ. Trình độ quản lý doanh nghiệp. Lực lượng lao động. Thể chế kinh tế - chính trị.

2.1.3. Lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp và ngành

Lợi thế cạnh tranh là một bộ phận cấu thành tạo nên năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Theo Micheal E.Porter thì lợi thế cạnh tranh xuất phát từ giá trị mà một doanh nghiệp có thể tạo ra cho người mua, và giá trị đó vượt quá phí tổn của doanh nghiệp.

Ngoài ra, ông còn đề cao khái niệm tập hợp ngành, ông cho rằng ngành không phải chỉ đơn giản là sự tập trung rời rạc của một nhóm các doanh nghiệp về mặt địa lý mà nó còn là sự gắn kết giữa các doanh nghiệp với nhau. Sự gắn kết này được thể hiện bởi sự tác động tương hỗ nhằm giúp các doanh nghiệp trong ngành cải thiện môi trường kinh doanh và đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành nói riêng và của ngành nói chung. Ông chỉ ra rằng, nhiều nguồn lợi thế cạnh tranh bắt nguồn từ vị trí địa lý và sự tụ họp trong một ngành. Nói cách khác, sức mạnh chung của ngành lớn hơn tổng sức mạnh của các thành viên riêng lẻ gộp lại.

Cả hai cấp độ của lợi thế cạnh tranh có mối quan hệ tương hỗ mật thiết với nhau. Một quốc gia hay nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp và ngành tạo dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Ngược lại, khi các doanh nghiệp và ngành có được lợi thế cạnh tranh, nó sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh và do đó góp phần vào việc nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia.

2.2. Các yếu tố đánh giá lợi thế cạnh tranh theo mô hình kim cương của Micheal E.Porter

Trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” của mình, Micheal E.Porter đã đưa ra những phân tích chứng minh rằng “chính các doanh nghiệp, chứ không phải các quốc gia, phải cạnh tranh trong những thị trường quốc tế”. Đơn vị phân tích cơ bản để hiểu được cạnh tranh là ngành công nghiệp. Một ngành công nghiệp (dù là sản phẩm hay dịch vụ) sẽ bao gồm một nhóm các đối thủ cạnh tranh sản xuất ra hàng hóa hoặc dịch vụ để cạnh tranh trực tiếp với nhau. Tại sao một quốc gia gặt hái được thành công quốc tế trong một ngành công nghiệp nhất định? Câu trả lời nằm trong bốn thuộc tính lớn của một quốc gia, định hình môi trường cạnh tranh cho doanh nghiệp nội địa, thúc đẩy hay kìm hãm việc tạo lập lợi thế cạnh tranh.

  • Các điều kiện yếu tố sản xuất. Vị thế của quốc gia về các yếu tố sản xuất đầu vào cần thiết cho cạnh tranh trong một ngành công nghiệp nhất định.
  • Các điều kiện về cầu. Đặc tính của cầu hàng hóa trong nước đối với sản phẩm hoặc hàng hóa của ngành đó.
  • Các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan. Sự tồn tại hay thiếu hụt các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan có tính cạnh tranh quốc tế ở quốc gia đó.
  • Chiến lược doanh nghiệp, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Những điều kiện trong một quốc gia liên quan đến việc thành lập, tổ chức và quản lý doanh nghiệp, cũng như đặc tính cạnh tranh trong nước.

Hình 1: Những nhân tố quyết định lợi thế quốc gia

Hình 1: Những nhân tố quyết định lợi thế quốc gia

Mô hình trên đây được gọi là “hình thoi” quốc gia, các quốc gia có khả năng thành công nhất trong những ngành hoặc phân ngành khi hình thoi quốc gia có triển vọng nhất. Những quốc gia thành công trong những ngành công nghiệp nhất định bởi vì môi trường của họ năng động nhất, có nhiều thách thức nhất, thúc đẩy và khuyến khích doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và mở rộng lợi thế của họ qua thời gian.

Hình thoi là một hệ thống tự củng cố lẫn nhau. Ảnh hưởng của một nhân tố này phụ thuộc vào trạng thái của các nhân tố khác. Những lợi thế của nhân tố này cũng có thể tạo ra hay nâng cao những lợi thế của các nhân tố khác. Hai biến số có thể ảnh hưởng đến hệ thống quốc gia theo những cách rất quan trọng và cần thiết để hoàn thành lý thuyết, đó là các sự kiện khách quan và chính phủ.

3. Lợi thế cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam

3.1. Các yếu tố sản xuất

3.3.1. Nguồn nhân lực

Với dân số hơn 96 triệu người (năm 2019), Việt Nam là một nước đang ở trong giai đoạn dân số vàng, lực lượng lao động chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số trên 50% (TCTK 2019), tốc độ tăng dân số trung bình giai đoạn hiện nay khoảng 1,33%. Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, tiếp thu nhanh những công nghệ mới, di chuyển dễ dàng. Nếu được bồi dưỡng về văn hóa, đào tạo tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn sẽ góp phần tăng năng suất lao động cùa Việt Nam. Như vậy có thể thấy, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện tại chỉ có thể đem lại lợi thế cạnh tranh về mặt số lượng và ở phẩm chất nghề nghiệp. Hai lợi thế này tạo tiền đề để phát triển về mặt chất lượng, phát triển yếu tố cơ bản thành cao cấp, phổ thôngthành chuyên biệt, đây sẽ là một vấn đề cấp thiết cần được ưu tiên giải quyết.

3.3.2. Nguồn tài sản vật chất  và cơ sở hạ tầng

Theo báo cáo về mức độ cạnh tranh toàn cầu “Global Competitiveness” của Diễn đàn Kinh tế thế giới, điểm cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã cải thiện trong những năm gần đây, cho thấy sức tăng trưởng mạnh và được hỗ trợ bởi các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn hơn. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chỉ xếp thứ 77 ở hạng mục cơ sở vật chất trong tổng số 141 quốc gia trong báo cáo mới nhất. Những cơ sở vật chất tạo nên lợi thế của Việt Nam thể hiện ở: hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế và vị trí giao thương quốc tế. Theo thống kê của Vụ Quản lý các Khu kinh tế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cả nước hiện có hơn 330  khu công nghiệp và 17 khu kinh tế, trong đó tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ. Các khu công nghiệp và khu kinh tế này đã có đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động, bên cạnh đó cũng góp phần hiện đại hóa công nghệ sản xuất nước nhà, phát triển cơ sở hạ tầng, giảm bớt thủ tục hành chính cũng như chi phí vận hành quản lý và thúc đẩy liên kết mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế. Kết hợp với sự phát triển hệ thống đường cao tốc những năm gần đây, điển hình là tuyến Láng - Hòa Lạc, Đà Nẵng - Quảng Ngãi, Long Thành - Dầu Giây, Sài Gòn - Trung Lương đã trở thành những yếu tố thuận lợi, giúp việc giao thương giữa các tỉnh thành, vùng kinh tế được dễ dàng hơn, việc lưu chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu trong ngành Dệt May - Da giày cũng nhờ thế được nhanh chóng và hiệu quả.

Ngoài ra, Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi cho việc giao thương quốc tế. Lãnh thổ nước ta có hai mặt giáp biển, hai mặt giáp lục địa với tổng chiều dài đường biên giới hơn 4500 km và đường biển hơn 3200 km. Việt Nam là trung tâm trung chuyển hàng hóa quốc tế trên trục giao thương Châu Á - Thái Bình Dương, có đủ điều kiện để mở rộng giao thương với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

3.2. Các điều kiện về cầu

Theo đánh giá của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, với dân số hơn 96 triệu người, mức tiêu dùng hàng dệt may hiện nay chiếm khoảng 5 - 6% chi tiêu của người dân, tương đương khoảng 3,5 tỷ USD, cho thấy đây là thị trường rất tiềm năng đối với các doanh nghiệp nội địa. Thời gian qua chúng ta tập trung sản xuất phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, không chú ý đến thị trường trong nước nên thị phần của hàng dệt may - giày da trong nước chiếm tỷ trọng khiếm tốn dưới 10%. Gần đây đã có một số doanh nghiệp tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao do phải cạnh tranh với rất nhiều nguồn hàng đến từ các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần có các giải pháp phát triển dài hơi cùng với các chiến lược tiếp thị sản phẩm phù hợp để từng bước giành lại thị trường đã mất.

Mặt khác, cùng với Nhật Bản, New Zealand, Việt Nam là một nền kinh tế hướng ngoại, hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019 đạt xấp xỉ 517 tỷ USD (Bộ Công Thương), trong khi đó GDP năm 2019 đạt khoảng 266,5 tỷ USD (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Do đó, ngoài thị trường tiềm năng trong nước, ngành Dệt May - Da giày còn có thị trường tiêu thụ rộng lớn ở nước ngoài. Đặc biệt, chúng ta đã tham gia CPTPP và vừa ký hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU là điều kiện hết sức quan trọng để hai ngành tạo sự đột phá về kim ngạch xuất khẩu trong tương lai. Việt Nam hiện nằm trong danh sách 10 nước xuất khẩu sản phẩm dệt may lớn nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu năm 2019 là 39 tỷ USD. Thị trường chính của sản phẩm dệt may Việt Nam bao gồm các quốc gia: Mỹ, Nhật Bản, Hàn quốc, EU,… Ngoài ra, các nước trong khu vực ASEAN cũng là một thị trường đang được kỳ vọng sẽ tăng trưởng mạnh nhờ vào các chính sách ưu đãi từ các thành viên trong tổ chức này. Tương tự như hàng dệt may, sản phẩm giày da Việt Nam cũng có vị thế trên thị trường thế giới, kim ngạch xuất khẩu năm 2019 là 21,5 tỷ USD đứng hàng thứ hai sau Trung Quốc. Với những lợi thế cạnh tranh do chúng ta tạo ra và những lợi thế được tạo ra từ việc thâm nhập vào các thị trường lớn trên thế giới đã góp phần đưa hai ngành này thành những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.       

3.3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ, liên quan

Theo Bộ Công Thương về công nghiệp hỗ trợ hiện nay, Việt Nam mới chỉ cung cấp được 0,2% nhu cầu về bông, 30% nhu cầu xơ, còn lại là phải nhập khẩu từ Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan,… Sản lượng sợi đạt 1,4 triệu tấn một năm nhưng hơn 70%, trong đó là xuất khẩu do chất lượng thấp, không đáp ứng được nhu cầu trong nước; mặt khác lại phải nhập khẩu sợi chất lượng cao từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,… Khâu dệt vải tạo ra khoảng 1,4 tỉ mét vải/năm (chiếm 15-16% nhu cầu), vẫn phải nhập khẩu 7 tỷ mét vải từ các nước ngoài TPP như Trung Quốc và Hàn Quốc (chiếm hơn 70%). Như vậy, dệt may xuất khẩu lệ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu, mà chủ yếu không phải từ các nước CPTPP. Đáng chú ý, 70-80% nguyên vật liệu dệt may, da giầy hiện nay vẫn phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc và các nước ngoài khu vực FTA. Sản phẩm sợi và vải sản xuất nội địa chưa đa dạng, chất lượng chưa cao nên chỉ sử dụng được 20-25% sản lượng cho ngành Dệt May xuất khẩu. Trong khi đó, hai hiệp định FTA lớn nhất của Việt Nam là CPTPP và Việt Nam - EU đều có những quy định khá khắt khe đối với hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế.

Từ thực tế nêu trên, chúng ta nhận thấy ngành Công nghiệp hỗ trợ, liên quan đến ngành Dệt May - Da giày còn nhiều bất cập, yếu kém, chưa phát triển tương xứng với ngành Dệt May - Da giày Việt Nam. Việc sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May - Da giày quá ít về số lượng, kém về chất lượng đã kìm hãm sự phát triển của hai ngành này.

3.4. Các chiến lược, cơ cấu kinh doanh và môi trường cạnh tranh

Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang gia nhập các hiệp định thương mại lớn với thế giới, doanh nghiệp ngành Dệt May - Da giày trong nước được đánh giá có nhiều thuận lợi, song cũng có không ít thách thức. Muốn cạnh tranh với các ngành Dệt May - Da giày nước ngoài đòi hỏi chúng ta cần liên kết, hợp tác chặt chẽ hơn.

Đối với ngành Dệt May, các doanh nghiệp trong nước cần có sự hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế tình trạng nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh về giá. Bởi để đầu tư nhà máy sản xuất nguyên liệu thì các doanh nghiệp phải bỏ ra hàng chục triệu USD, trong khi hầu hết các doanh nghiệp dệt may trong nước có quy mô vừa và nhỏ. Liên kết thành chuỗi là bước đi cần thiết và mang tính tất yếu. Thế nhưng, các doanh nghiệp cần thực hiện theo lộ trình từng bước nâng dần lên, đồng thời liên kết chuỗi phải có sự ràng buộc, không chỉ vì tình cảm mà phải mang lại lợi ích kinh tế cho từng doanh nghiệp.

Đối với ngành Da giày, hạn chế lớn nhất của ngành này là sự phát triển không đồng đều ở các khâu, đặc biệt là ở công đoạn đầu trong chuỗi giá trị bao gồm: sản xuất nguyên liệu, thiết kế mẫu mã. Điều này đã cản trở sự phát triển, làm giảm giá trị gia tăng ở khâu sản xuất. Mặt khác, mạng lưới xuất khẩu và tiếp thị vẫn đang là điểm yếu lớn trong chuỗi giá trị của ngành Da giày. Do đó, chiến lược của ngành Da giày trong thời gian tới là  nâng cấp ngành từ việc dịch chuyển các hợp đồng gia công với các yếu tố đầu vào nhập khẩu sang hình thức tích hợp sâu hơn, mô hình đòi hỏi liên kết trước và liên kết sau nhiều hơn ở cấp độ quốc gia và khu vực.

3.5. Các yếu tố khác

Trước mắt, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 hoành hành tại các quốc gia, tăng trưởng kinh tế thế giới có phần bị suy giảm, sản xuất và tiêu thụ hàng hóa hàng hóa gặp khó khăn. Về lâu dài, khi kinh tế thế giới được phục hồi và tăng trưởng, lượng công ăn việc làm gia tăng, thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình nhiều hơn, thị trường hàng hóa nói chung, hàng dệt may - da  giày nói riêng dần dần được cải thiện. Đây là điều kiện thuận lợi khách quan cho ngành Dệt May - Da giày Việt Nam.

Mặt khác, việc chúng ta tham gia CPTPP sẽ giúp cho ngành Dệt May - Da giày Việt Nam có một số lợi thế khách quan so với các đối thủ không nằm trong CPTPP như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Indonesia. Một số quốc gia trong CPTPP là thị trường xuất khẩu tiềm năng to lớn như ngoài Nhật Bản còn có Canada, Úc. Hàng dệt may Việt Nam, nếu đạt một số điều kiện ràng buộc sẽ được ưu đãi về thuế khi xuất khẩu sang các nước này. Hiệp định thương mại Việt Nam - EU vừa được ký kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Dệt May - Da giày Việt Nam phát triển hơn nữa.

Cuối cùng, để thúc đẩy ngành Dệt May - Da giày phát triển, có thể cạnh tranh với các nước, vừa qua Chính phủ đã ban hành một số biện pháp nhằm thúc đẩy ngành Công nghiệp hỗ trợ dệt may - da giày phát triển. Theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016, dệt may và da giày là 2 trong số 6 lĩnh vực nằm trong danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển của Việt Nam.

4. Giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày

Ngành Dệt May - Da giày là hai trong những ngành mũi nhọn của Việt Nam đem lại giá trị xuất khẩu cao. Vì vậy, Chính phủ rất chú trọng và tạo điều kiện thuận lợi để hai ngành này tiếp tục duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, Chính phủ cũng đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém còn tồn tại.

Thứ nhất, hoàn thiện môi trường pháp lý. Một hành lang pháp lý thông thoáng, rõ ràng sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt cần quan tâm là tích cực cải tiến những thủ tục hành chính, chấm dứt gây khó khăn cho các doanh nghiệp, xây dựng quy trình làm thủ tục hiện đại, nhanh chóng và thuận tiện cho người dân cũng như doanh nghiệp.

Ngoài những chính sách nhằm hoàn thiện khung pháp lý kể trên, cần phải củng cố bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bằng các văn bản pháp luật. Điều này được xem như những chính sách khuyến khích sáng tạo cho các doanh nghiệp, mặc dù chỉ với quy mô doanh nghệp vừa và nhỏ như hiện nay. Bên cạnh đó, không quên khuyến khích thành lập và phát triển các Hiệp hội, điển hình như Hiệp hội ngành Dệt may, Hiệp hội ngành Da giày, những định chế hay điều luật hiệp hội được Chính phủ ban hành sẽ là những kim chỉ nam cho sự tăng cường tác động của những hiệp hội này trong việc liên kết thúc đẩy phát triển ngành Dệt May - Da giày nói chung và các doanh nghiệp trong hiệp hội nói riêng.

Thứ hai, cải thiện chính sách thuế. Các doanh nghiệp dệt may - da giày sử dụng nguyên liệu trong nước để sản xuất và xuất khẩu phải gánh chịu thuế giá trị gia tăng, vì vậy họ sẽ gặp khó khăn trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp gia công xuất khẩu. Để khuyến khích gia tăng tính cạnh tranh với hàng dệt may - da giày xuất khẩu, Chính phủ cần có những biện pháp giảm thuế đối với nguyên phụ liệu sản xuất trong nước.

Mặc dù hàng gia công xuất khẩu có thuế suất giá trị gia tăng là 0%, nhưng thuế xuất khẩu vẫn còn, điều này cũng gây khó khăn không ít cho các doanh nghiệp. Vì vậy, Chính phủ cần có giải pháp thuế xuất khẩu hợp lý trên cơ sở trao đổi thảo luận với Hiệp hội ngành Dệt May - Da giày. Thực hiện chính sách thuế tích cực sẽ góp phần giải phóng sức mạnh tiềm năng của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam.

Thứ ba, đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là về hạ tầng giao thông và năng lượng. Chính phủ cần đưa ra những chính sách phát triển giao thông đường biển, hàng không, đường bộ. Hạ tầng giao thông đa dạng sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương thức vận chuyển nguyên phụ  liệu và thành phẩm được nhanh chóng dễ dàng và có hiệu quả. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của ngành Năng lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Dệt May - Da giày thực hiện đúng tiến độ cho các đơn hàng xuất khẩu.

Thứ tư, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Với năng lực về vốn còn hạn chế và công nghệ như hiện nay thì ngành Dệt May - Da giày sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và đáp ứng nhu cầu thị trường nước ngoài trong bối cảnh chúng ta tham gia CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU vừa mới ký kết. Do vậy để nhanh chóng chuyển đổi từ mô hình gia công xuất khẩu đơn thuần sang chuỗi cung ứng sản phẩm hoàn thiện, biện pháp tốt nhất là tận dụng nguồn vốn dồi dào từ nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Từ cuối năm 2018 sang đầu năm 2019 dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ngành Dệt May - Da giày ngày càng tăng giúp dần hoàn chỉnh chuỗi cung ứng dệt may trong nước, từ đó tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao hơn. Do vậy, Chính phủ cần có những cơ chế để thu hút cũng như sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, để hỗ trợ cho ngành Dệt May - Da giày trong nước.

Thứ năm, cần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, liên quan. Công nghiệp hỗ trợ, liên quan là yếu tố quan trọng hàng đầu của ngành Dệt May - Da giày, do vậy việc phát triển công nghiệp hỗ trợ, liên quan sẽ dẫn đến sự phát triển ngành Dệt May - Da giày. Chính phủ cần có sự quan tâm mạnh mẽ hơn cho sự phát triển của khối ngành này. Cụ thể, cần hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa như: ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu, thuế đất, hỗ trợ tối đa kinh phí các hoạt động nghiên cứu và phát triển, hoạt động ứng dụng và chuyển giao công nghệ sản xuất. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp hỗ trợ ngành Dệt May - Da giày thông qua biện pháp hoàn thuế đầu tư cho các doanh nghiệp. 

Thứ sáu. cần hỗ trợ tín dụng. Trong thời đại cạnh tranh gay gắt hiện nay, việc nắm bắt cơ hội kinh doanh là yếu tố tạo nên sự thành công của các doanh nghiệp. Việc các doanh nghiệp  có được các hợp đồng xuất khẩu sẽ gây cho các đối thủ cạnh tranh một số khó khăn nhất định. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp không có sự hỗ trợ từ các tổ chức tín dụng thì cơ hội kinh doanh sẽ không còn nữa. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngành Dệt May - Da giày hoạt động tốt, Chính phủ và các tổ chức tín dụng cần đảm bảo nguồn vốn cho các doanh nghiệp vay khi cần thiết nhằm đáp ứng tiến độ cho các hợp đồng xuất khẩu. Mặt khác, lãi suất vay cũng là một vấn đề các doanh nghiệp ngành Dệt May - Da giày quan tâm, vì nó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Lãi suất duy trì ở mức hợp lý là động lực để các doanh nghiệp yên tâm hoạt động.

5. Kết luận

Qua phân tích tổng quát, chúng ta cần nhận thức rằng hiện tại năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày của nước ta chưa cao so với các nước sản xuất cùng loại sản phẩm và cũng chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Mặc dù ngành Dệt May - Da giày là hai ngành mũi nhọn mang lại kim ngạch xuất khẩu khá cao so với các ngành sản xuất khác nhưng chưa tương xứng với năng lực sản xuất của nó. Hơn nữa trong tương lai do chúng ta tham gia CPTPP và EVFTA, hai ngành này phải sẵn sàng tư thế để không chỉ đáp ứng với thị trường tiêu thụ nội địa mà còn phải cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ ở các nước khác trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta là cần đánh giá chính xác năng lực cạnh tranh, từ đó thấy được những lợi thế có được cũng như những mặt còn hạn chế của ngành Dệt May - Da giày ở thời điểm hiện tại. Qua đó, sẽ giúp Chính phủ và các doanh nghiệp trong hai ngành này tìm ra các chiến lược và giải pháp phù hợp để duy trì sự phát triển bền vững.

Có thể thấy, một vấn đề mới trong bài viết này đề cập là khi phân tích nhân tố điều kiện về cầu trong các nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày, tác giả không đóng khung trong việc phân tích cầu nội địa mà còn phân tích cầu nước ngoài. Điều này phù hợp với thực tiễn và định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam.

Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành Dệt May - Da giày Việt Nam, để từ đó thấy được những lợi thế cạnh tranh cũng như những mặt còn yếu kém, đồng thời đưa ra các giải pháp thích hợp để phát triển là một nhiệm vụ cần thiết phải thực hiện. Song, việc đề ra các giải pháp để thúc đẩy ngành Dệt May - Da giày Việt Nam phát triển là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải phân tích sâu hơn, cụ thể hơn. Nghiên cứu này gợi mở cho các nghiên cứu sau nhằm đi sâu hơn từng giải pháp cụ thể.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Micheal E. Porter, (1990). Lợi thế cạnh tranh quốc gia. Dịch từ tiếng Anh. Nguyễn Ngọc Toàn và các đồng sự, 2008. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.
  2. Trần Văn Tùng, (2004). Cạnh tranh Kinh tế. Hà Nội: Nhà xuất bản Thế giới.
  3. Tổng cục Thống kê (2019). Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2019.
  4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019). Báo cáo tình hình thành lập và phát triển KCN, KKT năm 2019.
  5. Quốc hội (2019). Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019.
  6. VCCI (2018). Dệt may đang "hụt hơi" ở thị trường nội địa. <http://vccinews.vn/news/20639/det-may-dang-hut-hoi-o-thi-truong-noi-dia.html>
  7. Bộ Công Thương (2019). Hội nghị tổng kết ngành Công Thương ngày 27/12/2019
  8. Chính phủ (2015). Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ.
  9. Vũ Sơn, (2019). Định vị chiến lược cho ngành Da giày Việt Nam <https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/42650302-dinh-vi-chien-luoc-cho-nganh-da-giay-viet-nam.html> Xem ngày 10/5/2020.
  10. Bộ Công Thương, (2016). Công nghiệp phụ trợ dệt may - da giày phát triển mạnh mẽ nhờ chính sách mới. <http://vsi.gov.vn/vn/tin-cong-nghiep-ho-tro/cong-nghiep-phu-tro-det-may--da-giay-phat-trien-manh-me-nho-chinh-sach-moi-c2id1104.html> Xem ngày 12/5/2020.
  11. Cuộc sống Việt, 2011. Tài nguyên thiên nhiên Việt Nam. <http://www.vfej.vn/vn/663n/tai-nguyen-thien-nhien-viet-nam.html> xem ngày 12/5/2020.
  12. Đỗ Khắc Dũng, (2018). Ngành Dệt May Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. < http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nganh-det-may-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-56083.htm>. Xem ngày 12/5/2020

ASSESSING THE COMPETITIVE ADVANTAGES OF VIETNAM’S GARMENT - TEXTILE INDUSTRY AND LEATHER AND FOOTWEAR INDUSTRY

Master. Tran Ba Tho

Master. Nguyen Huu Loc

University of Economics Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

In the context of increasing international integration and innovation, especially since the country’s participation in the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) in 1995, Vietnam has faced tougher and stronger competition in all fields including the garment - textile industry and the leather and footwear industry. So far, the positions of these two Vietnamese industries have been increasingly affirmed in the global market. Vietnam’s garment and footwear products are exported to many countries with increasing export turnover. However, in order to maintain the positions and improve the competitiveness of these two industries, it is necessary for Vietnam to re-consider the competitive advantages and the weakness of the country’s garment-textile industry and leather and footwear industry. This article presents some solutions to solve difficulties that these two industries are facing.

Keywords: Garment - textile, leather and footwear industry, competitive advantage, solutions.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 19, tháng 8 năm 2020]