TÓM TẮT:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định sau gần 30 năm đổi mới. Quy mô nền kinh tế tăng lên, quá trình hội nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Để đạt được những thành công đó, có phần đóng góp quan trọng của cộng đồng doanh nghiệp (DN) và khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI). Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được khơi thông nhanh chóng và tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam thông qua huy động nguồn vốn cho phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện cho chuyển giao công nghệ; thúc đẩy quá trình chuyển đổi quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động và mở rộng hội nhập với thế giới, đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Từ khóa: Pháp luật, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước, Luật Đầu tư, tỉnh Kiên Giang.
1. Đặt vấn đề
Vai trò của pháp luật về đầu tư nói chung và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) nói riêng tại Việt Nam và thực tiễn điều chỉnh pháp luật đầu tư trên địa bàn tỉnh Kiên Giang là rất quan trọng.
Hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển đều chú trọng xây dựng Luật Đầu tư trong hệ thống pháp luật về kinh tế cho quốc gia của mình và ngay ở các nước trong khối Asean cũng xây dựng và áp dụng pháp luật về đầu tư gần một trăm năm nay. Việt Nam ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoại từ năm 1988 và có hiệu lực vào tháng 12/1989. Luật Đầu tư tới nay đã nhiều lần thay đổi và bổ sung, chính thức hủy bỏ hiệu lực của hai đạo luật là Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) và Luật Đầu tư trong nước thành một đạo luật có tên chung là Luật Đầu tư.
Luật Đầu tư đã tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước. Thông qua sự liên kết giữa DN có vốn FDI với các DN trong nước, công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao từ DN FDI sang các DN trong nước; tạo động lực cạnh tranh cho các DN trong nước nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa, qua đó nâng cao được năng lực. Bên cạnh đó còn góp phần quan trọng vào việc giới thiệu, đưa các sản phẩm hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường quốc tế; đẩy nhanh tốc độ mở cửa tự do thương mại; tăng khả năng ổn định cán cân thương mại của đất nước; tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam… Tuy vậy, FDI cũng tác động tiêu cực đến DN Việt Nam và dần chiếm ưu thế trong thị trường nội địa, trước sự cạnh tranh của các DN FDI đã làm giảm doanh thu của các DN trong nước. Đặt vào bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, với hàng loạt cam kết mới đã có hiệu lực ngay từ năm 2015 trở đi và những năm tiếp theo, khoảng cách giữa khu vực DN FDI và DN trong nước, cùng sự chi phối ngày càng rõ nét trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, nhất là xuất nhập khẩu. Đây sẽ là rào cản rất lớn trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là trong bối cảnh ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần triển khai nghiên cứu, nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan về FDI để có những chính sách phù hợp, đẩy mạnh liên kết giữa khu vực DN trong nước và nước ngoài. Các chính sách hướng tới các lĩnh vực cụ thể, ưu tiên cho các hoạt động sản xuất tạo giá trị gia tăng hay ưu tiên cho các dự án đầu tư công nghiệp cao. Đặc biệt, thu hút FDI cần phù hợp với từng ngành, khu vực về điều kiện kinh tế, địa lý, nhân lực và các tác động lôi cuốn các DN nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Muốn vậy, các bộ, ban ngành cần có cơ chế, chính sách tăng cường sự liên kết giữa DN trong nước và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư cho DN, nhằm hướng dẫn cho các nhà đầu tư và DN khi họ chọn Việt Nam là điểm đến an toàn và lý tưởng cho hoạt động phát triển kinh doanh và đầu tư của họ. Nhóm tác giả mong muốn đưa vấn đề nghiên cứu nhằm tìm hiểu pháp luật về đầu tư cho DN bao gồm DN nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam và cho DN trong nước khi muốn đầu tư ra nước ngoài, từ đó đưa đến cái nhìn chung về bối cảnh môi trường đầu tư và pháp luật Việt Nam về hoạt động đầu tư, cũng như những giới hạn của Luật Đầu tư tại Việt Nam, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đang đẩy mạnh vấn đề nghiên cứu và ứng dụng pháp luật; công cuộc đổi mới và xây dựng pháp luật phù hợp với tình hình hội nhập của đất nước cũng đang được quan tâm, nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về hoàn chỉnh hệ thống pháp luật của Việt Nam đã được thực hiện. Tuy nhiên, ít có công trình nghiên cứu tìm hiểu cách thực hiện theo pháp luật bằng cách ứng dụng pháp luật vào môi trường thực tiễn, đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về lĩnh vực điều chỉnh pháp luật về đầu tư trên địa bàn tình Kiên Giang.
2. Thực tiễn điều chỉnh pháp luật về đầu tư tại tỉnh Kiên Giang
Luật Đầu tư được triển khai áp dụng thực tiễn đã đạt được một số thành tựu nổi bật. Năm 2016, tỉnh Kiên Giang đã thu hút 15 dự án đầu tư, vốn đăng ký hơn 2.500 tỷ đồng, góp phần nâng tổng số dự án thu hút đầu tư toàn tỉnh đến nay là 690 dự án, với diện tích 34.131 ha, tổng vốn đăng ký trên 450 nghìn tỷ đồng.
Trong tổng số những dự án trên, có 321 dự án đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư gần 140.000 tỷ đồng, chiếm 31% tổng vốn đăng ký. Phần lớn những dự án này đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, thương mại, du lịch - dịch vụ, sản xuất và chế biến hàng hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng…
Huyện đảo Phú Quốc là địa phương thu hút số dự án đầu tư khá lớn với số lượng lũy kế đến nay có 189 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư và quyết định chủ trương đầu tư; trong đó, có 23 dự án FDI. Tổng diện tích các dự án này 7.192 ha, tổng vốn đăng ký 212.656 tỷ đồng; trong đó có 28 dự án đã đi vào hoạt động, vốn đầu tư hơn 35.000 tỷ đồng; 22 dự án đang triển khai xây dựng, vốn đầu tư 35.582 tỷ đồng, những dự án còn lại đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư. Đồng thời, tăng cường xúc tiến mời gọi, thu hút nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh vào các lĩnh vực có lợi thế; chú trọng ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp sử dụng nhiều lao động gắn với cải cách thủ tục hành chính về đầu tư. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực... Bên cạnh đó, tỉnh Kiên Giang cũng đẩy mạnh giải phóng mặt bằng, giao đất sạch để nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án đã được phê duyệt, cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Cùng với đó, tỉnh Kiên Giang tiếp tục đầu tư xây dựng hoàn thiện, đồng bộ kết cấu hạ tầng các cụm, khu công nghiệp như: Thạnh Lộc, Tắc Cậu (Châu Thành), Thuận Yên (Hà Tiên), Xẻo Rô (An Biên)… để vừa mời gọi, thu hút đầu tư, vừa triển khai thực hiện các dự án đã cấp phép. Mặt khác, tỉnh cũng xây dựng đề án phát triển du lịch của từng địa phương có thế mạnh du lịch trên 4 vùng du lịch trọng điểm của tỉnh gắn với huy động các nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, tập trung xây dựng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ trên đảo Phú Quốc; tạo điều kiện thuận lợi mời gọi, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, có năng lực vào đảo ngọc. Ngoài ra, tỉnh cũng rà soát, kiểm tra việc triển khai thực hiện các dự án đã đăng ký đầu tư trên đảo Phú Quốc, qua đó thu hồi những dự án không khả thi, dự án treo, đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập cho nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án đã cấp phép.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quảthu hút đầu tư, triển khai Luật Đầu tư tại tỉnh Kiên Giang
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng bộ tỉnh Kiên Giang, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Chương trình hành động số 06-CTr/TU ngày 08/3/2016 về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2015-2020 và Kế hoạch số 97/KH-UBND ngày 29/8/2016 của UBND tỉnh về phát triển kinh tế biển tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2020. Nội dung cơ bản của kế hoạch phát triển kinh tế và áp dụng pháp luật về đầu tư tại tỉnh Kiên Giang đến năm 2020, tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016 - 2020.
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đầu tư cho các loại hình DN cũng như các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế của tỉnh Kiên Giang.
Hai là, đẩy mạnh công tác quy hoạch và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển các vùng kinh tế trọng điểm; hoàn chỉnh các dự án rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; quy hoạch tổng thể phát triển ngành; quy hoạch sử dụng đất của tỉnh đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối 2016 - 2020; quy hoạch sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo của tỉnh; Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030…
Ba là, phát triển kinh tế các ngành ở vùng ven biển, hải đảo, tập trung đầu tư phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển nhanh và bền vững, là một trong những trung tâm du lịch khu vực ĐBSCL. Huy động mọi nguồn lực để tập trung đầu tư, hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng 4 vùng du lịch trọng điểm: Phú Quốc, Hà Tiên - Kiên Lương, Rạch Giá và các vùng phụ cận.
Bốn là, đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh; chú trọng đào tạo và có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ, Đề án “Phát triển y tế, Đảo Việt Nam đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh”; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, nhân lực cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Năm là, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vùng ven biển và trên các đảo: Tập trung các lĩnh vực về giao thông; nông nghiệp; đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp; văn hóa; thể dục thể thao; phát triển du lịch; cấp điện; cấp nước và phát triển hạ tầng đô thị.
Sáu là, phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu; tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ (KH&CN), tập trung nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng; Quan trắc nước biển ven bờ cảnh báo nguy cơ, sự cố môi trường biển, là cơ sở đánh giá chất lượng môi trường biển.
Bảy là, tăng cường quốc phòng - an ninh gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển, hải đảo; tiếp tục xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên khắp các địa bàn tỉnh;
Tám là, mở các đợt tập huấn cho các cán bộ, nhân viên trong các cơ quan quản lý đầu tư của tỉnh nói riêng và toàn thể cán bộ công chức viên chức toàn tỉnh nói chung về phong cách phục vụ, kỹ năng mềm trong ứng xử và trình độ tác nghiệp, tạo ra một phong cách đặc thù trong công vụ của tỉnh Kiên Giang.
Chín là, trong quá trình vận dụng các qui phạm pháp luật về đầu tư, hạn chế tối đa các văn bản của tỉnh ban hành liên quan đến lĩnh vực đầu tư trái với các qui định của pháp luật, ví dụ: các chính sách ưu đãi, chính sách thuế, sử dụng tài nguyên, thủ tục hành chính…
Mười là, xây dựng một kỷ cương thưởng phạt thích đáng cho các cá nhân, tập thể có đóng góp hiệu quả trong lĩnh vực vận dụng pháp luật về đầu tư.
Kiên Giang là một tỉnh cực Nam của Tổ quốc, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, địa danh có tiềm năng phát triển kinh tế, trong tương lai đây sẽ là một trong các tỉnh có đứng đầu các tỉnh đồng bằng sông cửu Long về thu hút đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Vai trò của pháp luật về đầu tư đang và sẽ góp phần quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của tỉnh Kiên Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Luật Đầu tư ngày 26/11/2014.
3. Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
4. Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
5. Luật Đầu tư công ngày 18/6/2014.
6. Luật Doanh nghiệp ngày 26/11/2014.
7. Luật Thương mại ngày 14/6/2005.
8. Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
9. Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
10. Báo cáo tổng kết hoạt động đầu tư của tỉnh Kiên Giang.
AMENDING LAW ON INVESTMENT - PRACTICAL
EXPERIENCES FROM KIEN GIANG PROVINCE
Ph.D. DANG CONG TRANG
Faculty of Law, Industrial University of Ho Chi Minh City
PHUNG THI THUY DUONG
Master program, Tra Vinh University
LE THI BE BAY
Master of Economic Laws program, Tra Vinh University
LAM THANH SON
Master program, Tra Vinh University
ABSTRACT:
Along with the development of the global economy, Vietnam has enjoyed a relative strong growth and macroeconomic stability for 30 years after implementing the “Doi Moi” policy. Some important achievements which are resulted from the growth of Vietnams economy include the increase in the economys scale, the strong economic integration process and the improvement of living standards of Vietnamese people. The Vietnamese business community and the foregin direct investment enterprises in Vietnam have had play a key role in the growth of Vietnam. The implementation of Law on Foregin Investment has attracted more foreign capital inflows into Vietnam. These foregin investments have significantly impacted on Vietnam’s economy through mobizing capital for development, boosting the growth of the economy, facilitating technology transfer, accelerating the economic structural transformation process, reducing the unemployment rate, opening the global integration opportunities and increasing revenue of the State budget.
Keywords: Law, foregin direct investment, domestic investment, Law on Investment, Kien Giang province.
Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017 tại đây