TÓM TẮT:
Quy mô của ngân hàng là yếu tố quyết định quan trọng để các ngân hàng tăng cường khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động. Nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của yếu tố quy mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của bài viết, hiệu quả hoạt động được đo bằng chỉ số phản ánh khả năng sinh lời của NHTM, với hai chỉ tiêu đo lường là ROA và ROE. Với mẫu nghiên cứu được sử dụng từ báo cáo tài chính của 21 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2024, các mô hình phân tích định lượng Pooled OLS, FEM, REM và FGLS đã được ước lượng và kết quả hồi quy cho thấy việc gia tăng quy mô tài sản có tác động làm gia tăng hiệu quả hoạt động của NHTM trong nước. Bên cạnh đó, với những biến kiểm soát được đưa vào mô hình, ngoài biến quy mô ngân hàng (SIZE) còn có 6 yếu tố cũng có tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM đó là: Tốc độ tăng trưởng tài sản (GROWTH); Tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng nguồn vốn huy động (LTD); Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản (LTA); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi của khách hàng (EQS); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQA); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng nợ (EQD).
Từ khóa: khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động, ngân hàng thương mại, quy mô ngân hàng, tác động.
1. Đặt vấn đề
Theo quan sát của tác giả, ngoài những ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPB) có quy mô tài sản lớn, có sự phát triển nhanh về mạng lưới chi nhánh, cung cấp được nhiều sản phẩm, dịch vụ cho nền kinh tế... thì đông đảo các NHTM cổ phần khác đều có quy mô nhỏ, thậm chí một số ngân hàng nguồn vốn chỉ hơn mức vốn pháp định 3.000 tỷ mà Nhà nước đưa ra. Do đó, các ngân hàng nhỏ này khó có thể hoạt động hiệu quả, cũng như khó có đủ các dịch vụ tài chính cung cấp cho xã hội. Từ những nội dung trên cho thấy, quy mô ngân hàng tạo sự khác biệt trên thị trường ngân hàng, cũng như hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các NHTM Việt Nam đã không ngừng gia tăng tổng tài sản (tổng nguồn vốn). Việc gia tăng quy mô tài sản, cũng như quy mô hoạt động của các NHTM đã cho thấy kết quả hoạt động của các NHTM này trong thời gian qua khá khả quan. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc gia tăng quy mô tài sản có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động của các NHTM, đây là một vấn đề cần phải được quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu về tác động của quy mô đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam, tuy nhiên các nghiên cứu chưa phân tích đầy đủ mà cụ thể là chưa đặt trong bối cảnh hoạt động tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ hoặc là chưa đặt trong sự thay đổi về khung pháp lý như sự thay đổi Luật Các tổ chức tín dụng 2024. Vì vậy, nghiên cứu “Tác động của quy mô ngân hàng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” trong giai đoạn mới là cần thiết để bổ sung cơ sở lý luận, cũng như bằng chứng thực nghiệm và đưa ra các hàm ý quản trị phù hợp hơn, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan các nghiên cứu
Một số nghiên cứu quốc tế và trong nước đã đưa ra các bằng chứng về tác động của quy mô đến hiệu quả hoạt động của các NHTM.
Nghiên cứu của Suflan (2009) với 37 ngân hàng tại Bangladesh trong giai đoạn từ năm 1997 - 2004, cho thấy các yếu tố nội tại của ngân hàng, cụ thể là các khoản cho vay, rủi ro tín dụng và chi phí tác động tích cực đáng kể đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong thời gian nghiên cứu, tác giả nhận thấy quy mô ngân hàng có tác động tiêu cực đến ROE nhưng tác động cùng chiều với ROA. Các chỉ số kinh tế vĩ mô không có tác động đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng ngoại trừ lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với lợi nhuận.
Tang (2020) cũng sử dụng các mô hình Pool-OLS, FEM, REM và GMM cho 286 quan sát từ dữ liệu của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2019. Tác giả sử dụng 3 mô hình nghiên cứu để xác định các yếu tố tác động đến tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả cho thấy, quy mô và lợi nhuận của ngân hàng tác động tích cực đến ROE; ngược lại, nợ xấu, dự phòng rủi ro cho vay, thu nhập ngoài lãi, tỷ lệ chi phí hoạt động/thu nhập hoạt động và tăng trưởng tín dụng ngân hàng có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng.
Ullah và cộng sự (2021) đã sử dụng phương pháp thực nghiệm để phân tích hiệu quả hoạt động của 10 ngân hàng Hồi giáo tham gia vào quá trình sáp nhập từ 6 quốc gia giai đoạn 2009 - 2018. Kết quả cho thấy, quy mô ngân hàng có tác động rất tích cực đến hiệu quả hoạt động của NHTM và đặc biệt là giai đoạn sau sáp nhập.
Nguyễn Thu Hiền (2017) thực hiện nghiên cứu về chỉ số đặc trưng ngân hàng, cấu trúc tài chính và vĩ mô tác động đến khả năng sinh lời ngành Ngân hàng ở Tunisian trong khoảng từ năm 1980 - 2000. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận ròng cao có xu hướng gắn liền với các ngân hàng có lượng vốn tương đối lớn và tổng chi phí lớn. Các yếu tố khác có tác động đến hiệu quả hoạt động là quy mô cho vay có tác động cùng chiều. Bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế không có tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Lê Đồng Duy Trung (2020) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của 30 NHTM bao gồm 4 NHTM cổ phần có vốn nhà nước chi phối, 25 NHTM cổ phần tư nhân trong nước và 01 NHTM nước ngoài (ShinhanBank Việt Nam). Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính hàng năm của các NHTM trên trong giai đoạn từ năm 2009 - 2017. Tác giả đã ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến cả ROA và ROE. Kết quả ước lượng cho thấy, quy mô tổng tài sản tác động dương đến ROA có ý nghĩa thống kê tại mức 1%, tuy nhiên tác động này không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tác động dương đến ROA nhưng tác động âm đến ROE, thu nhập lãi cận biên tác động dương đến cả ROA và ROE, tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi khách hàng tác động âm đến ROA nhưng không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ chi phí hoạt động tác động âm đến cả ROA và ROE. Tỷ lệ tập trung thị trường tác động âm tới ROA nhưng tác động dương đến ROE. Tốc độ tăng trưởng cung tiền có tác động dương đến ROA trong khi không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ lạm phát tác động dương đối với cả ROA và ROE.
Nguyễn Thị Thanh Bình và cộng sự (2022) đã sử dụng mô hình hồi quy OLS với biến phụ thuộc là ROA và các biến độc lập là quy mô ngân hàng, chi phí hoạt động, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi khách hàng, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, chỉ số giá tiêu dùng và hình thức sở hữu để đo lường các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của NHTM. Bộ dữ liệu đã được kiểm toán được công bố tại website của 24 NHTM niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020. Kết quả định lượng cho thấy tỷ lệ nợ xấu và lạm phát không có ý nghĩa thống kê. Quy mô ngân hàng có tác động thuận chiều với ROA, tỷ lệ chi phí hoạt động, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và hình thức sở hữu tác động ngược chiều với ROA.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Nghiên cứu của Alper và Anbar (2011), Ong Tze San và The Boon Heng (2013) khi thực hiện nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia cho kết quả về sự tác động cùng chiều của biến tỷ lệ vốn chủ sở hữu, thanh khoản, rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng đến lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, các biến kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng GDP, lạm phát lại không thể hiện mối quan hệ nhân quả đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Dawood. U (2014) tại Pakistan sử dụng biến phụ thuộc là ROA và các biến độc lập là quy mô ngân hàng, thanh khoản, hiệu quả chi phí, tỷ lệ vốn chủ sở hữu, huy động vốn. Và nghiên cứu của Muahamad Sajid Saeed (2014) lấy dữ liệu của 73 NHTM tại Anh trong giai đoạn 2006 - 2012, với phương pháp nghiên cứu tương tự đã có kết quả có khác với Dawood. U (2014). Cụ thể, kết quả đã chỉ ra rằng hiệu quả chi phí và tính thanh khoản có tác động ngược chiều lên ROA, còn tỷ lệ vốn chủ sở hữu và tỷ lệ huy động vốn có tác động cùng chiều lên ROA. Quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ huy động tiền gửi, tính thanh khoản có tác động cùng chiều đối với ROA và ROE, còn GDP và tỷ lệ lạm phát có tác động ngược chiều.
Sanchez, & Sobrino (2014) tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa quy mô và hiệu quả ngân hàng, quy mô ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định mức độ lành mạnh của ngân hàng. Các ngân hàng lớn có lợi thế về tính kinh tế theo quy mô hơn so các ngân hàng nhỏ và do đó quy mô ngân hàng tăng dẫn đến hiệu quả hoạt động tăng, ngân hàng càng ổn định và ít bị suy yếu.
Tuy nhiên, Bhagat, Bolton & Lu (2015), Jabra (2020) đã tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô ngân hàng và việc chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Khi quy mô ngân hàng tăng lên, rủi ro ngân hàng tăng và do đó làm tăng khả năng suy yếu của ngân hàng.
Berger, Hanweck và Humphrey (1987), Stiroh và Rumble (2006), Pasiouras và Kosmidou (2007) chỉ ra rằng, các ngân hàng có quy mô rất lớn tại các thị trường tập trung lại có tâm lý ỷ lại “quá lớn không thể sụp đổ”, làm phát sinh vấn đề rủi ro đạo đức từ phía các nhà quản lý ngân hàng (Mishkin, 1999), khiến ngân hàng dễ bị suy yếu, đe dọa đến sự ổn định của cả hệ thống. Trong hầu hết các nghiên cứu, tổng tài sản được sử dụng làm dẫn xuất cho quy mô ngân hàng.
Tại Việt Nam, có rất nhiều nghiên cứu về sự tác động các yếu tố đến hiệu quả hoạt động ngành Ngân hàng, trong đó tiêu biểu có Trần Ngọc Thơ và cộng sự (2019) nghiên cứu mối quan hệ giữa cạnh tranh, chấp nhận rủi ro và kết quả hoạt động của 31 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2017 và phát hiện ra rằng hiệu quả hoạt động tỷ lệ thuận với mức độ cạnh tranh và chấp nhận rủi ro. Trần Chí Chinh và Nguyễn Hữu Tiến (2016) nghiên cứu tác động của quy mô ngân hàng và tập trung thị trường lên kết quả hoạt động của 20 NHTM trong giai đoạn 2010 - 2014. Kết quả cho thấy, hiệu quả hoạt động có mối quan hệ đồng biến với cả quy mô và tập trung ngân hàng.
Như vậy, qua tổng quan nghiên cứu cho thấy, việc nghiên cứu sự tác động các yếu tố vi mô và vĩ mô đến kết quả hoạt động kinh doanh có nhiều kết quả khác nhau. Nhằm tăng thêm tính khoa học và củng cố bằng chứng lý thuyết, bài viết tiến hành kiểm nghiệm lại các yếu tố tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của 21 NHTM cổ phần đang được niêm yết giai đoạn 2014 - 2024. Và tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Y = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + εi,t
Trong đó:
Y : biến phụ thuộc
X : biến độc lập
β : hệ số hồi quy
ε, t : sai số
Nghiên cứu sử dụng mô hình đa biến với biến phụ thuộc là biến lợi nhuận của NHTM được biểu thị bằng hai biến thay thế là ROA và ROE và biến độc lập là Quy mô ngân hàng (SIZE - X1); Tốc độ tăng trưởng tài sản (GROWTH - X2); Tỷ lệ cấp tín dụng/Tổng nguồn vốn huy động (LTD - X3); Tỷ lệ dư nợ cho vay/Tổng tài sản (LTA - X4); Tổng vốn chủ sở hữu/Tổng tiền gửi của khách và tài trợ ngắn hạn (EQS - X5); Tổng vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản (EQA - X6); Tổng vốn chủ sở hữu/Tổng nợ (EQD - X7). Để kiểm tra sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM, mô hình hồi quy đa biến dữ liệu bảng đã được phát triển. (Bảng 1)
Như vậy, tương ứng với phương trình trên sẽ có biến phụ thuộc lần lượt là ROA, ROE và biến độc lập SIZE. Mô hình đề xuất là:
(1) ROA = β0 + β1*SIZEit + β2*GROWTHit + β3*LTDit + β4*LTAit + β5*EQSit + β6*EQAit + β7*EQDit + eit
(2) ROE = β0 + β1*SIZEit + β2* GROWTHit + β3*LTDit + β4*LTAit + β5*EQSit + β6*EQA it+ β7*EQDit + eit
Bảng 1. Mô tả các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu |
||
Biến |
Diễn giải |
Mô tả cách tính |
Biến phụ thuộc |
||
ROA |
Khả năng sinh lời trên tổng tài sản |
|
ROE |
Khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu |
|
Biến độc lập |
||
SIZE |
Quy mô ngân hàng |
SIZE = Ln(Tổng tài sản) |
GROWTH |
Tốc độ tăng trưởng tài sản |
|
LTD |
Tỷ lệ cấp tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động |
|
LTA |
Tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản |
|
EQS |
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi |
|
EQA |
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản |
|
EQD |
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ |
|
Nguồn: Tác giả tổng hợp |
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Sau khi lược khảo nghiên cứu có liên quan để xây dựng giả thuyết và đưa ra mô hình nghiên cứu, tác giả sử dụng thống kê mô tả dữ liệu; Phân tích tương quan giữa các biến trong mô hình; Phân tích hồi quy để kiểm định các giả thuyết đã đặt ra.
Nghiên cứu sử dụng mô hình đa biến trên cơ sở dữ liệu bảng được thu thập từ trang web http://iboard.ssi.com.vn phân tích bằng phần mềm Stata để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của 21 NHTM đã niêm yết trên sàn bao gồm: ACB, BID, EIB, CTG, GDB, HDB, KLB, LVB, MBB, MSB, NAB, OCB, PGB, SEAB, SHB, STB, TCB, TPB, VCB, VIB, VPB trong giai đoạn 2014 - 2024, tương đương có 231 quan sát.
Dữ liệu thu thập được là dữ liệu thứ cấp dựa trên các nguồn chính thức như báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh và báo cáo thường niên đã được công khai qua các năm của các NHTM. Các yếu tố vi mô gồm: Quy mô ngân hàng (SIZE); Tốc độ tăng trưởng tài sản (GROWTH); Tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng nguồn vốn huy động (LTD); Tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản (LTA); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi của khách hàng (EQS); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (EQA); Tổng vốn chủ sở hữu trên tổng nợ (EQD).
Bài viết sử dụng mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM để phân tích. Tiếp đến sẽ sử dụng kiểm định F-Test trên Stata và kiểm định Hausman để kiểm định và chọn ra mô hình phù hợp. Kết quả cho thấy mô hình FEM sẽ phù hợp với biến độc lập ROE còn mô hình REM phù hợp với biến độc lập ROA. Tiếp tục thực hiện các kiểm định các khuyết tật trong mô hình và cuối cùng là sử dụng phương pháp bình phương bé nhất tổng quát (GLS) để khắc phục các khuyết tật của mô hình.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Dữ liệu thu thập được từ 21 NHTM Việt Nam là dữ liệu hàng năm từ năm 2014 đến năm 2024. Đây là dữ liệu bảng với tổng số quan sát là 231 quan sát. Thống kê mô tả các biến cho bởi Bảng 2 cho thấy Logarit tự nhiên của tổng tài sản có giá trị trung bình là 33.05328, lớn nhất đạt 35.55429 và nhỏ nhất là 30.39251.
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến quan sát |
|||||
Variable |
Obs |
Mean |
Std. dev. |
Min |
Max |
ROA |
231 |
.5515391 |
.4934531 |
.0278337 |
2.434018 |
ROE |
231 |
6.389876 |
5.052084 |
.309494 |
25.87531 |
SIZE |
231 |
33.05328 |
1.143167 |
30.39251 |
35.55429 |
GROWTH |
231 |
16.34501 |
11.03936 |
-22.03973 |
60.426 |
LTD |
231 |
70.7798 |
11.73536 |
25.45143 |
94.11357 |
LTA |
231 |
61.53243 |
9.817823 |
22.52535 |
80.06246 |
EQS |
231 |
13.51424 |
6.121219 |
5.505835 |
35.67615 |
EQA |
231 |
8.728114 |
3.226909 |
4.06177 |
22.02968 |
EQD |
231 |
9.706054 |
4.075749 |
4.233735 |
28.25393 |
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata 17 |
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy biến đại diện cho hiệu quả tài chính ROA có giá trị nhỏ nhất là 0.0278 là do hệ thống NHTM Việt Nam thực hiện chưa thành công việc tái cơ cấu và chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ dịch Covid-19, một số ngân hàng yếu kém thực hiện hoạt động sáp nhập - cổ phần hóa, tăng vốn chưa thành công. Mặc dù vậy, một số ngân hàng yếu kém đã làm cho chỉ số chung ROA của toàn ngành chưa nhu mong đợi. Ngoài ra, ROA bình quân của toàn bộ mẫu trong giai đoạn 2014 - 2024 là 0.55 với độ lệch chuẩn là 0.49. Giá trị ROA cao nhất là 2.43. Bảng tổng hợp còn cho thấy, ROE có giá trị trung bình là 6.39 và độ lệch chuẩn là 5.05 với ROE cao nhất là 25.87. (Bảng 3)
Bảng 3. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình ROA |
|||||||||
|
ROA |
SIZE |
GROWTH |
LTD |
LTA |
EQS |
EQA |
EQD |
|
ROA |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
|
|
SIZE |
-0.3899 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
|
GROWTH |
-0.3449 |
0.0516 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
LTD |
0.0760 |
0.4587 |
-0.1561 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
LTA |
0.0364 |
0.4531 |
-0.1357 |
0.9646 |
1.0000 |
|
|
|
|
EQS |
0.0973 |
-0.1684 |
-0.0025 |
0.0166 |
-0.1657 |
1.0000 |
|
|
|
EQA |
0.3627 |
-0.2772 |
-0.1562 |
0.1221 |
-0.0608 |
0.9206 |
1.0000 |
|
|
EQD |
0.3630 |
-0.2773 |
-0.1544 |
0.1342 |
-0.0502 |
0.9150 |
0.9986 |
1.0000 |
|
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata 17 |
|
Ma trận tương quan minh họa rằng các biến LTD, LTA, EQS, EQA và EQD tương quan thuận với ROA. Trong khi đó, SIZE và GROWTH có mối tương quan nghịch. Mối tương quan mạnh nhất là với Quy mô ngân hàng; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ và mối tương quan yếu nhất là tương quan với Tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản; Tỷ lệ cấp tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi. Cũng theo kết quả này, các yếu tố Tỷ lệ cấp tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động; Tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi đều có mức ý nghĩa trên 5% và vì vậy các biến này không có ý nghĩa thống kê. (Bảng 4)
Bảng 4. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình ROE |
|||||||||
|
ROE |
SIZE |
GROWTH |
LTD |
LTA |
EQS |
EQA |
EQD |
|
ROE |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
|
|
SIZE |
-0.2174 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
|
GROWTH |
-0.2668 |
0.0516 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
|
LTD |
0.0396 |
0.4587 |
-0.1561 |
1.0000 |
|
|
|
|
|
LTA |
0.0688 |
0.4531 |
-0.1357 |
0.9646 |
1.0000 |
|
|
|
|
EQS |
-0.2475 |
-0.1684 |
-0.0025 |
0.0166 |
-0.1657 |
1.0000 |
|
|
|
EQA |
-0.0381 |
-0.2772 |
-0.1562 |
0.1221 |
-0.0608 |
0.9206 |
1.0000 |
|
|
EQD |
-0.0383 |
-0.2773 |
-0.1544 |
0.1342 |
-0.0502 |
0.9150 |
0.9986 |
1.0000 |
|
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata 17 |
|
Đối với mô hình lấy ROE làm biến phụ thuộc, ma trận tương quan chỉ ra rằng các biến LTD và LTA tương quan thuận với ROE. Trong khi đó, ROE có mối tương quan nghịch chiều với SIZE, GROWTH, EQS, EQA và EQD. Mối tương quan mạnh nhất là với Tốc độ tăng trưởng tài sản; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi và mối tương quan yếu nhất là tương quan với Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ; Tỷ lệ cấp tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động. Cũng theo kết quả này, các yếu tố Tỷ lệ cấp tín dụng so với tổng nguồn vốn huy động; Tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản; Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ đều có mức ý nghĩa trên 5% và vì vậy các biến này không có ỳ nghĩa thống kê.
Tác giả tiếp cận mô hình từ Pooled OLS, FEM rồi đến REM với mục đích là khắc phục các nhược điểm còn tồn đọng của mô hình hồi quy trước đó. Tuy nhiên, cả ba mô hình Pooled OLS, FEM và REM không thể kiểm soát được hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan của nhiễu, do đó tác giả tiến hành hồi quy thêm phương pháp FGLS để khắc phục các khuyết tật trên. Do đó, mô hình FGLS được chọn là mô hình ra quyết định kết quả thực nghiệm, các mô hình còn lại được sử dụng để đối chiếu nhằm kiểm tra tính vững thực nghiệm. (Bảng 5)
Bảng 5. Kết quả mô hình FGLS - Mô hình ROA |
|||||||
ROA |
Coef |
Std. Err |
z |
P > ⎜z⎜ |
[95% Conf. Interval] |
|
|
SIZE |
-.1610591 |
.0245005 |
-6.57 |
0.000 |
-.2090791 |
-.1130391 |
|
GROWTH |
-.0145545 |
.0025371 |
-5.74 |
0.000 |
-.0195271 |
-.0095818 |
|
_cons |
6.112964 |
.8092215 |
7.55 |
0.000 |
4.526919 |
7.699009 |
|
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata 17 |
|
Trước hết với mô hình lấy ROA làm yếu tố đại diện cho hiệu quả hoạt động của NHTM, có thể rút ra một số nhận định sau. Tại Việt Nam, giai đoạn 2014 - 2024, cho kết quả các biến SIZE và GROWTH có tác động ngược chiều khi ROA làm biến đại diện. Tuy nhiên, tác động của biến GROWTH không được rõ rệt bởi hệ số của biến này nhỏ. Trong khi biến SIZE có hệ số cao hơn, cũng đồng nghĩa là có tác động mạnh hơn lên ROA.
Điều này cho thấy, quy mô càng lớn và sự gia tăng tài sản hữu hình càng nhanh, ngân hàng càng rơi vào tình trạng bất ổn. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Jabra và cộng sự (2020). Mishkin (1999) cho rằng, các nhà quản lý phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến rủi ro đạo đức do sự gia tăng quy mô ngân hàng, tài sản hữu hình và hành vi chấp nhận rủi ro, lãi suất tiền gửi cao hơn, dẫn đến lãi suất cho vay cao hơn, người đi vay ngân hàng có xu hướng đầu tư vào các dự án rủi ro để hoàn trả các khoản nợ vay, làm tăng rủi ro vỡ nợ, dẫn đến sự ổn định tài chính của ngân hàng cho vay càng kém, đẩy ngân hàng vào tình trạng hoạt động kém hiệu quả. (Bảng 6)
Bảng 6. Kết quả mô hình GLS - Mô hình ROE |
|||||||
ROE |
Coef |
Std. Err |
z |
P > ⎜z⎜ |
[95% Conf. Interval] |
|
|
SIZE |
-1.119021 |
.2650439 |
-4.22 |
0.000 |
-1.638498 |
-.599545 |
|
GROWTH |
-.116458 |
.0270543 |
-4.30 |
0.000 |
-.1694834 |
-.0634326 |
|
EQS |
-.23998 |
.0494323 |
-4.85 |
0.000 |
-.3368655 |
-.1430945 |
|
_cons |
48.52386 |
8.890683 |
5.46 |
0.000 |
31.09844 |
65.94928 |
|
Nguồn: Tác giả tính toán từ phần mềm Stata 17 |
Xét đến mô hình sử dụng ROE là yếu tố đo lường hiệu quả hoạt động ngân hàng, tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc tương tự với với mô hình ROA. Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2024 cho kết quả, các biến SIZE, GROWTH và EQS có tác động ngược chiều đến hoạt động của ngân hàng khi ROE làm biến đại diện. Tuy nhiên, tác động của biến GROWTH, EQS không được rõ rệt bởi hệ số của các biến này nhỏ. Trong khi biến SIZE có hệ số rất cao, cũng đồng nghĩa là có tác động rất mạnh lên ROE.
Điều này cho thấy, bên cạnh việc mở rộng quy mô và đẩy mạnh sự gia tăng tài sản hữu hình càng làm cho ngân hàng hoạt động hiệu quả càng kém thì kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra răng tâm lý của khách hàng khi gửi tiền tại ngân hàng không còn quan tâm nhiều tới lượng vốn mà ngân hàng đó nắm giữ, có nghĩa là ngân hàng có vốn chủ sở hữu nhiều hơn sẽ khó thu hút các khoản tiền gửi với lãi suất thấp hơn và tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động.
4. Kết luận và hàm ý quản trị
Kết quả nghiên cứu cho thấy, yếu tố quy mô ngân hàng (SIZE) và tốc độc tăng trưởng tài sản (GROWTH), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên trên tổng tiền gửi (EQS) có tác động tiêu cực, làm giảm hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Từ đó, tác giả đưa ra hàm ý quản trị góp phần làm giảm tính dễ suy yếu và tổn thương của ngân hàng và tăng hiệu quả hoạt động của NHTM, thúc đẩy ổn định tài chính tại các NHTM Việt Nam.
Thứ nhất, Thông tư số 09/2024/TT-NHNN ngày 28/06/2024 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động, hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn giữ mức 30% tỷ lệ vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN và sau đó được sửa đổi bổ sung tại Thông tư số 08/2020/TT-NHNN. Theo tác giả, tỷ lệ này vẫn cao so với thông lệ quốc tế trong khoảng 10% - 20%. Do đó, cần thực hiện giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung, dài hạn theo thông lệ quốc tế cùng với tiến trình hội nhập.
Thứ hai, trên góc độ quản lý tài sản có, ngân hàng phải thận trọng khi chạy theo các chỉ tiêu tăng trưởng. Các NHTM cần kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tín dụng để giảm nợ xấu và tăng vốn chủ sở hữu để tạo niềm tin cho công chúng. Khi niềm tin của thị trường được củng cố, từng ngân hàng có thể sử dụng nguồn lực tài sản có hiệu quả, đảm bảo khả năng sinh lời, từ đó mà cả khu vực được ổn định.
Thứ ba, Việt Nam cần xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, quy định giới hạn tăng trưởng tín dụng công bằng, minh bạch, giám sát tăng trưởng tín dụng chặt chẽ cùng với chất lượng tín dụng, tạo nên một môi trường cho các ngân hàng cùng cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy sự ổn định tài chính khu vực ngân hàng Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
Allen, F., & Gale, D. (2000), Bubbles and crises. The economic journal, 110(460), 236-255.
Audi, M., Ali, A., & Roussel, Y. (2021), Aggregate and Disaggregate Natural Resources Agglomeration and Foreign Direct Investment in France;Baselga-Pascual, L., Trujillo-Ponce, A., & Cardone-Riportella, C. (2015).
Factors influencing bank risk in Europe: Evidence from the financial crisis. The North American Journal of Economics and Finance, 34, 138-166.
Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., & Maksimovic, V. (2008), Financing patterns around the world: Are small firms different? Journal of financial economics, 89(3), 467-48Beltratti, A., & Stulz, R. M. (2012), The credit crisis around the globe: Why did some banks perform better? Journal of financial economics, 105(1), 1-17.
Bernanke, B. S., & Gertler, M. (1995), Inside the black box: The credit channel of monetary policy transmission. Journal of Economic perspectives, 9(4), 27-48.
Berger, A. N., Hanweck, G. A., & Humphrey, D. B. (1987), Competitive viability in banking: Scale, scope, and product mix economies. Journal of monetary economics, 20(3), 501-520.
Berger, A. N., & DeYoung, R. (1997), Problem loans and cost efficiency in commercial banks. Journal of Banking & Finance, 21(6), 849-870.
Bhagat, S., Bolton, B., & Lu, J. (2015), Size, leverage, and risk-taking of financial institutions. Journal of banking & finance, 59, 520-537.
Impact of bank size on the operational efficiency of Vietnamese commercial banks
Nguyen Duc Phuc
Faculty of Finance and Accounting, Ho Chi Minh City University of Industry and Trade
ABSTRACT
Bank size is a critical factor influencing the competitiveness and operational performance of commercial banks. This study investigates the impact of bank size on the efficiency of Vietnamese commercial banks, using profitability indicators—Return on Assets (ROA) and Return on Equity (ROE) - as measures of performance. The analysis is based on financial statement data from 21 Vietnamese commercial banks spanning the period 2014–2024. Several quantitative models, including Pooled Ordinary Least Squares (Pooled OLS), Fixed Effects Model (FEM), Random Effects Model (REM), and Feasible Generalized Least Squares (FGLS), were employed for estimation. The regression results reveal that bank size, measured by total assets, has a positive and statistically significant effect on bank performance. Additionally, six control variables were found to significantly influence profitability: Asset Growth Rate (GRROWTH), Loan-to-Deposit Ratio (LTD), Loan-to-Total Asset Ratio (LTA), Equity-to-Customer Deposits Ratio (EQS), Equity-to-Total Asset Ratio (EQA), and Equity-to-Total Debt Ratio (EQD).
Keywords: profitability, bank performance, commercial banks, bank size, impact.