TÓM TẮT:
Trong khuôn khổ của bài viết này, tác giả chỉ đề cập tới một số chính sách, pháp luật nhằm hỗ trợ phát triển dịch vụ môi trường hiện nay, nhằm chỉ ra điểm hạn chế. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường của Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: Dịch vụ môi trường; Chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường; Bảo vệ môi trường.
1. Mở đầu
Thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các thành công, Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt là sự xuống cấp của chất lượng môi trường. Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đang diễn ra gay gắt với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn về kinh tế và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác. Trong bối cảnh đó, nhu cầu về xử lý chất thải và cải thiện môi trường ngày càng cao, trong khi năng lực cung ứng dịch vụ môi trường (DVMT) và chất lượng DVMT còn thấp không đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng nhanh của xã hội. Nguyên nhân chính là do khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều, chỉ mới phát triển ở các thành phố lớn. Trước đây, các hoạt động làm sạch, khôi phục môi trường và bảo vệ tài nguyên được xem là những dịch vụ công, do chính phủ cung cấp. Nhưng hiện nay, do gánh nặng đối với ngân sách ngày càng lớn, cộng với một thực tế là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả nên chính phủ đã tìm cách xã hội hóa lĩnh vực DVMT và tạo ra các cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Như vậy, ở góc độ quản lý Nhà nước, sở dĩ dịch vụ này chưa phát triển là do chúng ta đang thiếu một hành lang pháp lý nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho việc hình thành, quản lý và phát triển các loại hình dịch vụ về môi trường.
2. Các chính sách, pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ môi trường tại Việt Nam
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc thúc đẩy, phát triển DVMT đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng nhằm đa dạng hóa các loại hình hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT). Có thể kể đến một số văn bản quan trọng có tính định hướng cho việc xây dựng các chính sách, pháp luật của nhà nước trong công tác BVMT nói chung và phát triển DVMT nói riêng.
Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã chỉ ra yêu cầu đối với đẩy mạnh công tác xã hội hóa BVMT đã coi phát triển DVMT là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo và quản lý phát triển đất nước theo hướng bền vững, trong đó đối với phát triển DVMT đã xác định cần: “Tạo cơ sở pháp lý và cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và cộng đồng tham gia công tác BVMT. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận về BVMT; khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác về BVMT”.
Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị tiếp tục nhấn mạnh: “Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường,... Phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 (tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam) tiếp tục khẳng định quan điểm: “Từng bước phát triển ngành công nghiệp môi trường…”. Các chủ trương, đường lối này đã thực sự đặt nền móng cơ bản cho việc hình thành thể chế quản lý phát triển ngành DVMT ở Việt Nam.
Để thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển DVMT, lần đầu tiên Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2005 của Việt Nam đã đưa các chính sách về ưu đãi, khuyến khích phát triển ngành công nghiệp môi trường (CNMT) nói chung và ngành DVMT nói riêng thành một số điều luật cụ thể. Tiếp nối tinh thần đó, Luật BVMT năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 trong đó tại điều 150 quy định về phát triển DVMT như sau: Nhà nước khuyến khích tổ chức cá nhân thành lập doanh nghiệp DVMT thông qua hình thức đấu thầu, cơ chế hợp tác công tư trong các lĩnh vực sau:
* Thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải;
* Quan trắc, phân tích môi trường, đánh giá tác động môi trường;
* Phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, CNMT;
* Tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường;
* Giám định về môi trường đối với hàng hóa, máy móc, thiết bị, công nghệ;
* Giám định thiệt hại về môi trường; giám định sức khỏe môi trường;
* Các dịch vụ khác về BVMT.
Đồng thời, theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 26/11/2014, trong đó tại Điều 15, Điều 16 mục 1 chương III quy định hoạt động thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải sẽ được:
* Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp;
* Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư;
* Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất…
Để triển khai các quy định pháp luật về phát triển DVMT đi vào thực tiễn. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành một số các chính sách nhằm hỗ trợ, ưu đãi trên các lĩnh vực: Đất đai, tài chính, nguồn vốn đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ nhằm thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, cung cấp DVMT; Việc phát triển DVMT nhằm cung ứng dịch vụ BVMT cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; Từng bước tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, nhiều chủ trương, chính sách được ban hành nhưng chậm đi vào cuộc sống, vẫn đang trong giai đoạn chờ các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như:
Gần đây nhất, Chính phủ ban hành Quyết định số 192/2017/QĐ-TTg ngày 13/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đến năm 2025”. Trong đó, Đề án phát triển ngành CNMT đã đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp để phát triển DVMT như sau:
- Đầu tư phát triển các hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị tập trung tại các thành phố, khu đô thị; nước thải công nghiệp tập trung tại các khu công nghiệp, làng nghề;
- Đầu tư phát triển các hệ thống thu gom, phân loại, xử lý chất thải rắn đô thị tập trung tại các thành phố; chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại tập trung;
- Đầu tư, hỗ trợ phát triển các hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm...
Quyết định số 129/2009/QĐ-TTg ngày 29/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án "Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường". Theo đó, Đề án quy định một số nhóm cơ chế chính sách về khuyến khích đầu tư liên quan lĩnh vực DVMT.
Quyết định số 249/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020. Trong đó, xác định phát triển dịch vụ môi trường là một nội dung quan trọng của chiến lược phát triển dịch vụ trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm hướng tới mục tiêu “Phát triển dịch vụ môi trường nhằm cung ứng dịch vụ bảo vệ môi trường cho các ngành, lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước”.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Quyết dịnh số 1570/2016/QĐ-TTg ngày 9/8/2016 phê duyệt khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch nhằm hỗ trợ phát triển và quản lý thị trường DVMT. Theo đó, khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường gồm có 3 nội dung lớn như sau: (1) Xây dựng và ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển dịch vụ môi trường; (2) Hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý chất lượng dịch vụ môi trường; (3) Chính sách hỗ trợ giải quyết những vấn đề môi trường lớn, bức xúc. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và ban hành mới các quy định chi tiết hơn về phát triển DVMT.
Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 cũng đã chỉ rõ Nhà nước tăng cường việc ban hành các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển năng lực cung ứng DVMT, nhất là xử lý, tái chế chất thải và công nghệ, giải pháp xử lý môi trường, coi đây là ngành kinh tế xanh, mũi nhọn giải quyết các vấn đề môi trường.
Quyết định số 1393/2012/QĐ-TTg ngày 31/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050 và theo Quyết định số 403/QĐ-TTg, ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020 cũng đã đưa ra hoạt động ưu tiên đó là thúc đẩy sản xuất hàng hóa và DVMT.
Tại điều 15 của Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 của Chính phủ về thoát nước và xử lý nước thải nhằm điều chỉnh các hoạt động thoát nước và xử lý nước thải có quy định về các dự án thoát nước và xử lý nước thải đô thị, khu dân cư nông thôn tập trung do các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng được hỗ trợ.
Ngoài ra, một số chính sách khác có liên quan bao gồm: Nghị định số 19/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2014 có quy định chi tiết về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT; Quyết định số 1292/QĐ-TTg ngày 01/08/2014 phê duyệt kế hoạch hành động phát triển ngành CNMT và tiết kiệm năng lượng thực hiện chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030...
3. Một số hạn chế
Nhìn chung, trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho các hoạt động BVMT nói chung và thúc đẩy phát triển DVMT nói riêng. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành đã thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho thị trường DVMT phát triển như các quy định về đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý nước thải, quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, kế hoạch xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,… Cùng với đó là các cơ chế hỗ trợ về tài chính, thuế, đất đai,... cho việc thành lập các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực DVMT. Tuy nhiên, các chính sách hiện nay còn chưa đầy đủ, chưa thống nhất và đồng bộ, nhiều quy định không rõ ràng, minh bạch; một số văn bản khi triển khai trên thực tế đã bộc lộ những bất cập, hạn chế cụ thể như sau:
Thứ nhất, hiện nay chúng ta chưa có danh mục quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường và danh mục quy trình kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật đối với các lĩnh vực DVMT, mà thực tế chúng được quy định trong rất nhiều văn bản dưới luật và do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành (Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế, trong phạm vi lĩnh vực mình quản lý các bộ ngành đều xây dựng cho mình những tiêu chuẩn kỹ thuật riêng), gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như các tổ chức cá nhân khi có nhu cầu tra cứu.
Thứ hai, Việt Nam chưa có định nghĩa và danh mục phân loại chi tiết về DVMT cũng như mã ngành trong Phân ngành các sản phẩm của Việt Nam. Một số văn bản hướng dẫn có liên quan đến phát triển DVMT còn chậm được ban hành, do vậy các quy định về phát triển DVMT chưa được triển khai đầy đủ trên thực tế. Ví dụ như: theo Khoản 2, Điều 150 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 thì Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ hướng dẫn tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường thông qua hình thức đấu thầu, cơ chế, hợp tác công tư trong một số lĩnh vực DVMT. Thực tế hiện nay, vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn quy định này.
Thứ ba, các quy định pháp luật về quản lý chất lượng của một số lĩnh vực DVMT còn bị bỏ ngõ hoặc chưa có quy định rõ ràng như: Hiện nay, chưa có quy định về điều kiện tổ chức hoạt động dịch vụ kiểm toán môi trường cũng như quy định về bồi dưỡng, đào tạo, cấp chứng chỉ hành nghề đối với cá nhân tham gia cung cấp các lĩnh vực DVMT. Bên cạnh một số DVMT như quan trắc môi trường, dịch vụ xử lý chất thải, dịch vụ đánh giá tác động môi trường, đánh giá môi trường chiến lược là đã có các quy định chi tiết về điều kiện cấp phép hoạt động, còn các lĩnh vực DVMT khác vẫn chưa có quy định hướng dẫn cụ thể.
Thứ tư, hệ thống đơn giá, định mức áp dụng cho các loại hình DVMT còn thiếu, ví dụ như, một số phân ngành DVMT chưa quy định về định mức đơn giá như hoạt động quan trắc và phân tích môi trường; tư vấn, cung cấp thông tin; dịch vụ khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; dịch vụ lập báo cáo đánh giá tác động môi trường. Một số phân ngành DVMT quy định mức đơn giá chi trả DVMT chưa hợp lý, một số lĩnh vực nhà nước vẫn phải hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động, tao ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp có vốn nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời tạo ra sự không thống nhất giữa các địa phương, gây khó khăn cho cả doanh nghiệp sử dụng dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng.
Thứ năm, một số quy định pháp luật có liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ cho các hoạt động phát triển DVMT lại nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau dẫn đến vừa thừa, vừa thiếu và gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiếp cận. Hiện nay, các quy định pháp luật có liên quan đến ưu đãi, hỗ trợ cho các hoạt động phát triển DVMT được quy định trong rất nhiều văn luật như: Luật Đầu tư 2014 (Điều 15, Điều 16); Luật BVMT năm 2014 (Điều 151); Luật Đất đai năm 2013; Luật Doanh nghiệp năm 2014; Luật Thuế xuất nhập, thuế nhập khẩu năm 2016 (khoản 19, Điều 16); chương VII Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải... Chính vì có quá nhiều văn bản pháp luật cùng quy định về cùng một vấn đề cho nên các doanh nghiệp sẽ rất khó để có thể biết chính xác được bằng cách nào hay qua cơ chế nào họ nhận được những ưu đãi mà Chính phủ đã quy định. Đây là một hạn chế lớn vì đầu tư vào môi trường là một lĩnh vực có khả năng sinh lời không cao đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn và nếu chính sách chưa rõ ràng thì khó có thể tạo động lực cho giới doanh nghiệp DVMT phát triển.
4. Kết luận và kiến nghị
Phát triển DVMT là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu trước áp lực ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam cũng đã tham gia một số cam kết quốc tế về tự do hóa thương mại đối với DVMT trong khuôn khổ các cam kết thương mại đa phương như WTO, TPP, APEC, ASEAN và một số cam kết thương mại song phương như Hiệp định tự do hóa thương mại Việt Nam - EU; khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Mặc dù vậy, hiện nay vẫn còn nhiều nội dung chưa thống nhất về phân loại DVMT trên thế giới cũng như một số khác biệt trong thống kê về phân loại DVMT của Việt Nam, các chính sách hỗ trợ phát triển vẫn còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, DVMT là một ngành rất tiềm năng do nhu cầu ngày càng gia tăng từ trong nước cũng như từ quá trình tự do hóa thương mại. Do vậy, để khắc phục các hạn chế và khai thác các lợi thế tiềm năng này, trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung hơn nữa trong việc rà soát, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, pháp luật hiện hành nhằm hỗ trợ phát triển DVMT. Sau đây là một số đề xuất của tác giả nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển DVMT của Việt Nam trong thời gian tới:
Thứ nhất, liên quan tới vấn đề quy chuẩn môi trường cần đặt ra mục tiêu khả thi, Nhà nước cần kiểm soát một số dịch vụ, không thể để tư nhân đầu tư, như giám định môi trường, máy móc... Để đảm bảo đầu ra của các loại hình dịch vụ, nên ban hành các văn bản quy định chất lượng quy chuẩn áp dụng đầu ra của sản phẩm..., phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ hai, cần bổ sung thêm định nghĩa chung về DVMT, trong đó có quy định cụ thể về các phân ngành DVMT trong Luật BVMT năm 2014 và phân công rõ ràng chức năng, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong nhiệm vụ Bảo vệ môi trường. Kịp thời ban hành thông tư quy định hướng dẫn tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường thông qua hình thức đấu thầu, cơ chế, hợp tác công tư trong một số lĩnh vực DVMT.
Thứ ba, xây dựng bổ sung các quy định cụ thể hơn về phạm vi những lĩnh vực DVMT cần xã hội hóa và mức độ xã hội hóa, kế hoạch và lộ trình xã hội hóa, các cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phi Nhà nước tham gia đầu tư cung cấp hàng hóa và DVMT.
Thứ tư, cần triển khai thực hiện trên diện rộng chính sách người gây ô nhiễm phải trả chi phí để xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo và phục hồi môi trường; xóa bỏ bao cấp của Nhà nước qua giá, phí đối với các DVMT công ích; bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ. Đồng thời, áp dụng nguyên tắc người được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường phải có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường.
Thứ năm, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường ở Việt Nam; trong đó tập trung vào 3 nhóm nội dung lớn, bao gồm: Nhóm các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển dịch vụ môi trường; Nhóm các quy định của pháp luật về quản lý chất lượng dịch vụ môi trường và Nhóm chính sách thành lập một số tổ chức, doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước đủ mạnh để giải quyết những vấn đề lớn, bức xúc về môi trường của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Dương Thị Thanh Xuyến, Nguyễn Thị Phương Mai, Xây dựng chính sách phát triển dịch vụ môi trường tại Việt Nam, Tạp Chí Môi trường số 4, năm 2016
2. http://moitruong.com.vn/quy-dinh-phap-luat/van-ban-phap-quy/cac-van-ban-khuyen-khich-uu-dai-dau-tu-cho-moi-truong-het--15378.htm
3. http://www.monre.gov.vn
4. Phạm Nguyên Minh, Trần Huy Hoàn và Võ Thị Kim Tuyến (2016), “Phát triển ngành Dịch vụ môi trường của Việt Nam trong hội nhập quốc tế”, Sách chuyên khảo: Một số vấn đề thương mại và logistics ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 1986 - 2016”, tr 285 - 304, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội.
5. Tran Hoan, David Luff, 2015, Improve negotioation and implementation of international commitments on environmental goods and service.
CURRENT SITUATION OF POLICIES AND LAWS RELATED TO DEVELOPMENT OF VIETNAMESE ENVIRONMENT SERVICES AND A NUMBER OF RECOMMENDATIONS
MA. VO THI KIM TUYEN
Research Department of Sustainable
Commerce Development and Environment
Trade Research Institute, Ministry of Industry and Trade
ABSTRACT:
Within the framework of this article, the author mentions and points out the limitations of some current policies and laws that support the development of environmental services. Based on the results, the author made some recommendations to improve the policy and legislation on environmental development of Vietnam in the coming time.
Keywords: Environmental services, policies and legislation on development of environmental services, environmental protection.
Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 08 tháng 07/2017 tại đây.