Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện trên báo cáo thường niên của các doanh nghiệp trên sàn UPCOM

PGS.TS. HÀ XUÂN THẠCH (Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh) và ThS. TRỊNH THỊ HỢP (Trường Đại học An Giang)

TÓM TẮT:

Mục đích nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện (CBTTTN) của các doanh nghiệp (DN) trên sàn UPCoM. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, khảo sát trên báo cáo thường niên (BCTN) của 135 DN trên sàn UPCoM năm 2015. Kết quả phân tích chỉ ra 4 nhân tố: (1) Quy mô DN; (2) Loại công ty kiểm toán; (3) Khả năng sinh lời; (4) Quyền sở hữu nước ngoài có ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM. Tác giả cũng đưa ra các hàm ý chính sách nhằm nâng cao mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM.

Từ khóa: Công bố thông tin tự nguyện, thông tin báo cáo tài chính, nhân tố ảnh hưởng, công bố thông tin, sàn UPCoM.

1. Giới thiệu

Vấn đề công bố thông tin (CBTT) trên thị trường chứng khoán (TTCK) luôn là một vấn đề quan trọng được nhiều đối tượng quan tâm như nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, các nhà nghiên cứu... Đặc biệt là CBTTTN ngày nay ngày càng được quan tâm nhiều hơn do CBTT bắt buộc chưa đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng.

Thị trường UPCoM ra đời tạo tiền đề cho Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội xây dựng thị trường OTC có quản lý, góp phần thu hẹp thị trường tự do và hướng tới một thị trường OTC hiện đại. Đã có nhiều nghiên cứu trước đây tiến hành nghiên cứu về vấn đề CBTT trên TTCK, nhưng đối tượng nghiên cứu hầu hết là các DN niêm yết trên HNX hoặc HOSE, còn các DN trên sàn UPCoM rất hạn chế đề tài thực hiện.

Xuất phát từ những thực trạng trên, tác giả nhận thấy cần thiết thực hiện nghiên cứu đề tài này. Nghiên cứu của tác giả gồm 2 mục tiêu cụ thể sau: (1) Tìm ra các nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM; (2) Đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM.

2. Cơ sở lý thuyết

2.1. Tổng quan các nghiên cứu trước

Juhmani (2013) đã tiến hành nghiên cứu nhằm tìm ra mối quan hệ giữa các yếu tố và mức độ tiết lộ thông tin tự nguyện của các công ty niêm yết tại Bahrain. Mẫu nghiễn cứu chính thức là 41 công ty niêm yết, dữ liệu được thu thập trên BCTN của các công ty này năm 2010. Để đo lường mức độ CBTTTN, tác giả sử dụng phương pháp chỉ số CBTT, danh sách các mục CBTTTN gồm 34 khoản mục được xây dựng dựa trên Luật Công ty Bahrain và IFRS. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố có ảnh hưởng đến công CBTTTN là: Quyền sở hữu của cổ đông không kiểm soát, quy mô công ty và đòn bẩy tài chính.

Lan, Wang & Zhang (2013) đã tiến hành nghiên cứuvề các yếu tố quyết định đến mức độ CBTTTN của các công ty niêm yết tại Trung Quốc. Với quy mô mẫu là 80% công ty niêm yết trên sàn Thượng Hải và Thẩm Quyến. Dữ liệu được dùng cho nghiên cứu là BCTN năm 2006 của các công ty này. Mức độ CBTTTN được đo lường bằng chỉ số CBTT với một danh sách 119 khoản mục. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy, tài sản cố định, ROE và quyền sở hữu khuếch tán có tác động tích cực lên CBTTTN. Loại kiểm toán viên và môi trường pháp lý có tác động tiêu cực đến mức độ CBTTTN. Chi phí vốn chủ sở hữu không có mối quan hệ với mức độ CBTTTN.

Sweiti and Attayah (2013) nghiên cứu xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến việc CBTTTN trong BCTN của các công ty niêm yết trên PEX. Mẫu được chọn là 48 công ty cho năm 2011 và 35 công ty cho năm 2007. Biến phụ thuộc là mức độ CBTTTN được đo lường bằng chỉ số CBTT với danh sách 79 mục thông tin được thiết lập. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTTTN của các công ty này còn thấp, mặc dù có cải thiện từ 2007 so với 2011. Các phân tích cũng cho thấy những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiết lộ tự nguyện; tỷ lệ hội đồng quản trị (HĐQT) không điều hành, quy mô HĐQT, ủy ban kiểm toán, số lượng cổ đông. Yếu tố không ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN của công ty là hoạt động của HĐQT.

Qua một số tổng quan các nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy có 2 dòng nghiên cứu: (1) là đánh giá mức độ CBTTTN của các công ty niêm yết và (2) tìm ra các nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN của các công ty niêm yết. Trong bài nghiên cứu này tác giả đi theo dòng nghiên cứu thứ 2, trên cơ sở kế thừa phương pháp nghiên cứu trước ở nước ngoài và kiểm định lại tại Việt Nam.

2.2. Các lý thuyết nền

Lý thuyết ủy nhiệm: Lý thuyết này đã được xây dựng đầu tiên bởi Ross (1973), sau này được Jensen & Meckling (1976) phát triển thêm. Nội dung của lý thuyết này đề cập đến mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm thông qua hợp đồng. Trong công ty cổ phần, chủ sở hữu hay là các cổ đông (bên ủy nhiệm) thuê nhà quản lý (bên được ủy nhiệm) để họ thay mặt các cổ đông thực hiện việc đề ra các quyết định kinh tế nhằm tối đa hóa lợi ích cho các cổ đông. Tuy nhiên trong quá trình điều hành, nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định nhằm mang lại lợi ích cho bản thân hơn là lợi ích cho các cổ đông. Do vậy làm phát sinh chi phí ủy nhiệm. Để giảm thiểu chi phí này, chủ sở hữu cần đưa ra nhiều biện pháp buộc nhà quản lý phải có trách nhiệm cao trong quản lý và công bố thông tin minh bạch tình hình hoạt động của DN như: tách biệt chức danh CT. HĐQT và GĐ, nâng tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành, tăng số lượng thành viên HĐQT…

Lý thuyết tín hiệu: Lý thuyết tín hiệu dựa trên cơ sở đóng góp của 2 nghiên cứu là Arrow (1972) và Schipper (1981). Lý thuyết này về cơ bản giải quyết vấn đề bất cân xứng thông tin giữa bên gửi và bên nhận. Khi tham gia TTCK, để có thể cạnh tranh, các DN cần phát ra những tín hiệu tích cực thu hút nhà đầu tư như: BCTC được kiểm toán bởi công ty uy tín; có hệ thống kiểm soát nội bộ… Các DN cùng ngành, cùng quy mô và khả năng tài chính thì CBTTTN nhiều hơn là một trong những cách phát tín hiệu tích cực để cạnh tranh với nhau.

Lý thuyết chi phí sở hữu: Lý thuyết chi phí sở hữu được Robert E. Verrecchia (1983) viết trong tác phẩm “Discretionary Disclosure”. Nội dung của lý thuyết xem xét lợi ích và chi phí của việc công bố thông tin hay không công bố thông tin. Chi phí công bố thông tin không chỉ là chi phí của việc chuẩn bị và công bố các thông tin kế toán, mà còn bao gồm cả thiệt hại mà công ty gặp phải từ việc công bố thông tin. Điển hình phải kể đến là thông tin bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng, khai thác gây bất lợi cho công ty. Cũng vì thế nên thường các công ty nhỏ, khả năng thanh toán và khả năng sinh lợi thấp rất nhạy cảm trong việc cung cấp thông tin.

Việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN đã được không ít các nhà nghiên cứu thực hiện và công bố. Trên cơ sở lý thuyết nền và kế thừa các nghiên cứu trước của Tạ Quang Bình (2012), tác giả đề xuất các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ CBTTTN thể hiện trong hình 1 sau:

3. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, kế thừa thang đo để đo lường biến phụ thuộc và các biến độc lập từ các nghiên cứu trước nên tác giả bỏ qua giai đoạn nghiên cứu sơ bộ và đi vào nghiên cứu chính thức với 2 giai đoạn như sau:

- Giai đoạn 1: Thu thập dữ liệu được chia làm 2 bước.

Bước 1: Thu thập dữ liệu về các biến độc lập của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào không đủ dữ liệu cho việc đo lường biến độc lập, tác giả loại ra khỏi mẫu tức là không thực hiện bước 2 đối với những doanh nghiệp này.

Bước 2: Dựa vào danh mục chỉ số CBTTTN đã thiết lập tác giả đối chiếu với BCTN để tính ra tổng số thông tin tự nguyện được công bố của các DN đã được chọn vào mẫu nghiên cứu sau bước 1 và tính ra mức độ CBTTTN của từng DN.

- Giai đoạn 2: Xử lý dữ liệu.

Sau khi có đủ bảng dữ liệu về mức độ CBTTTN và dữ liệu về các biến độc lập, tác giả tiến hành kiểm định mô hình hồi quy tuyến tính bội để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTTTN.

3.2. Đo lường biến

+ Đo lường biến phụ thuộc:

Trong bài nghiên cứu của mình tác giả ủng hộ quan điểm đo lường mức độ CBTTTN bằng phương pháp chỉ số CBTT không trọng số để đo lường mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM. Phương pháp này được rất nhiều nhà nghiên cứu trước sử dụng như: Hossain & cộng sự (2009), Hasan & Hosain (2015)... Với khoản mục được công bố gán giá trị là "1", không công bố gán giá trị là "0" và tính toán chỉ số CBTTTN cho từng DN theo công thức sau:

Trong đó:

Yj: Chỉ số CBTT tự nguyện của công ty thứ j (0=< Yj =<1)

dij: Khoản mục thông tin i được công ty j công bố

n: Số mục thông tin tối đa công bố

Danh mục các thông tin tự nguyện cần công bố được tác giả xây dựng như sau: Tác giả kế thừa danh mục thông tin tự nguyện cần công bố của Tạ Quang Bình (2012). Sau đó, tác giả loại ra những thông tin không phổ biến với hầu hết các DN. Tiếp theo tác giả đối chiếu với TT 52/2012/TT-BTC, mục đích là loại ra những thông tin đã quy định là bắt buộc phải công bố trên BCTN. Cuối cùng một danh mục chỉ số CBTTTN chính thức gồm 45 khoản mục chia làm 6 nhóm thông tin.

+ Đo lường biến độc lập:

Việc đo lường các biến độc lập cũng được tác giả kế thừa của nhiều nghiên cứu trước đây và đã được thống kê bởi Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) thể hiện trong bảng 1.

3.3. Chọn mẫu

Có nhiều phương pháp để xác định kích thước mẫu, trong bài nghiên cứu của tác giả theo quan điểm của Nguyễn Đình Thọ (2013) được cho là phương pháp thường được sử dụng trong mô hình hồi quy bội: n  50 +8 m

Trong đó:

n: Kích thước mẫu

m: Là số lượng biến độc lập trong mô hình

Trong mô hình nghiên cứu của tác giả đề xuất có 11 biến độc lập, do vậy kích thước mẫu tối thiểu là 138 quan sát. Theo đó, tác giả sẽ tiến hành lấy mẫu tối thiểu là 138 doanh nghiệp trên sàn UPCoM. Dữ liệu dùng cho nghiên cứu được tác giả thu thập từ BCTC và BCTN của các DN trong mẫu năm 2015.

4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận

4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu được mô tả tóm tắt trong bảng 2 như sau:

4.2. Kết quả nghiên cứu

- Thực trạng mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM năm 2015:

Từ bảng 3 cho thấy mức độ CBTTTN của các DN còn rất thấp, doanh nghiệp có mức độ CBTTTN thấp nhất là 2,2% và cao nhất cũng chỉ ở mức 51,11%, mức độ CBTTTN trung bình của các doanh nghiệp chỉ ở mức 21,3%.

- Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình:

Kết quả nghiên cứu bảng 4 cho thấy, R2 hiệu chỉnh là 0,17 (17%), tức là các biến trong mô hình có ảnh hưởng 17% tới biến phụ thuộc. Kết quả cũng cho thấy, Prob >F = 0,000 < 0,05 nằm trong miền bác bỏ giả thiết “H0: Mô hình không phù hợp” thì cho thấy mô hình hồi quy tổng thể hoàn toàn phù hợp.

- Kiểm định hiện tượng đa công tuyến:

Theo kết quả phân tích thì tất cả các biến trong mô hình đều có hệ số Vif<2, do vậy mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến (xem bảng 9).

- Kiểm định phương sai sai số thay đổi:

Kết quả kiểm định bảng 5 cho thấy, Prob >chi2 = 0,6995 > 0,05 thuộc miền chấp nhận H0: “Phương sai sai số không thay đổi”, nói cách khác mô hình không mắc phương sai sai số thay đổi.

- Kiểm định phân phối chuẩn của phần dư:

Kết quả phân tích bảng 6 cho thấy, Prob>chi2 =0,1045 > 0,05; do vậy thuộc miền chấp nhận H0: Phân phối của phần dư là phân phối chuẩn.

- Kiểm định mô hình hồi quy tuyết tính bội:

Kết quả kiểm định phương trình hồi quy tuyến tính bội hay chính là kiểm định mối quan hệ giữa các biến độc lập lên biến phụ thuộc được tác giả tóm tắt trong bảng 9.

Từ kết quả phân tích cho thấy có 4 biến độc lập tác động tới biến phụ thuộc mức độ CBTTTN bao gồm: QMDN, LCTKT, KNSL, QSHNN. Do các biến này đều có mức ý nghĩa của hệ số hồi quy P>|t| lần lượt là 0,02; 0,025; 0,037; 0,039 đều < 0,05. Trong đó, QMDN, LCTKT, KNSL có tác động cùng chiều tới biến phụ thuộc và QSHNN có tác động ngược chiều với biến phụ thuộc. Các biến còn lại không có ý nghĩa thống kê hay nói cách khác là không tìm thấy sự ảnh hưởng của chúng tới biến phụ thuộc.

Với tập dữ liệu thu thập được trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và dựa vào kết quả phân tích ở bảng 9 thì phương trình hồi quy bội thể hiện các yếu tố tác động đến mức độ CBTTTN có dạng như sau:

5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận

Kết quả nghiên cứu đã cho thấy mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM còn rất thấp. Đa số các DN có mức độ CBTTTN từ 10% đến dưới 30%, mức độ CBTTTN trung bình đạt 21,3%. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã tìm mô hình nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp và R2 hiệu chỉnh = 17% nói lên các biến trong mô hình giải thích được 17% biến phụ thuộc. Đồng thời tìm ra 4 nhân tố có ảnh hưởng tới mức độ CBTTTN bao gồm: QMDN, LCTKT, KNSL và QSHNN. Trong đó chỉ có QSHNN là tác động ngược chiều lên mức độ CBTTTN và các nhân tố còn lại tác động thuận chiều.

5.2. Kiến nghị

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã tìm được, để nâng cao mức độ CBTTTN của các DN trên sàn UPCoM, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:

Bộ Tài chính cần hướng dẫn thêm nhiều thông tin tự nguyện hơn trong BCTN nhằm giúp các DN thuận lợi trong việc thiết lập nội dung thông tin tự nguyện cần công bố. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các DN hợp nhất, sáp nhập nhằm tăng quy mô. Các cơ quan chức năng cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn việc CBTT và tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán đối với những DN quy mô nhỏ, KNSL thấp và nhất là các DN không được kiểm toán bởi công ty kiểm toán Big Four. Cần tăng cường vai trò của HĐQT trong việc giám sát tình hình CBTT của nhà quản lý. Đặc biệt các DN có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao lại ít công bố thông tin tự nguyện, làm chậm quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp theo chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Arrow, K. J. ,1972. Some models of racial discrimination in the labor market.

2. Bộ Tài chính, 2012. Thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ trưởng BTC về việc ban hành Hướng dẫn về việc CBTT trên TTCK.

3. Dr. Ibrahim M. Sweiti & Dr. Osama F. Attayah, 2013. Critical Factors Influencing Voluntary Disclosure: The Palestine Exchange “PEX”. Global Journal of Management and Business Research Finance, 6: 8-16.

4. Li Huiyun & Zhao Peng (2009), A Study of Factors Influencing Voluntary Disclosure of Chinese Listed Companies. M & D Forum, p 245-257.

5. Md. Tanvir Hasan & Md. Zakir Hosain, 2015. Corporate Mandatory and Voluntary Disclosure Practices in Bangladesh: Evidence from listed companies of Dhaka Stock Exchange. Research Journal of Finance and Accounting, 12:.15-32.

6. Meek, G. K., Roberts, C. B. & Gray, S. J. ,1995. Factors influencing voluntary annual report disclosures by US, UK and Continental European multinational corporations. Journal of International Business Studies, 4: 555-572.

7. Michael C. Jensen & William H, 1976. Meckling. Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure. Journal of Financial Economics, 4:.305-360.

8. Mohammed Hossian, H.hammami, 2009. Voluntary disclosure in the annual reports of an emerging country. Advances in Accounting, incorporating Advances in International Accounting ,25:255-265.

9. Nguyễn Đình Thọ, 2013. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội.

10. Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của công ty niêm yết trên TTCK - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ. Trường Đại học Kinh tế-TP. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Thị Thu Hảo (2014). Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE. Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 26, trang 99-115.

12. Omar Juhmani, 2013. Ownership Structure and Corporate Voluntary Disclosure: Evidence from Bahrain. University of Bahrain. International Journal of Accounting and Financial Reporting, 2:133-148.

13. Robert E. Verrecchia, 1983. Discretionary Disclosure. Journal of Accounting and Economics, 5:179-194.

14. Ta Quang Binh, 2012: Voluntary Disclosure Information in the Annual Reports of Non Financial Listed Companies: The Case of Vietnam. Journal of Applied Economics and Business Research, 2: 69-90.

15. Yang Lan, Lili Wang, Xueyong Zhang (2013). Determinants and features of voluntary disclosure in the Chinese stock market. China Journal of Accounting Research, 6: 265-285.

IDENTIFY THE FACTORS INFLUENCING THE LEVEL OF

VOLUNTARY DISCLOSURE ON UPCOM'S ANNUAL REPORT

Assoc Prof. PhD. HA XUAN THACH

City University of Economics Ho Chi Minh

MA. TRINH THI HOP

An Giang University

ABSTRACT:

The purpose of this research is to identify factors influencing the level of voluntarily information disclosuring of enterprises on Upcom. The author used quantitative research methods, survey on annual reports of the 135 companies on UpCom in 2015. Analytical results indicated four factors: (1) Size of enterprises; (2) Type of auditing firms; (3) Profitability; (4) Foreign Ownership affectting the level of voluntarily information disclosuring of enterprises on Upcom. The author also proposes the policy implications and recommends some solutions to enhance the level of voluntarily information disclosuring of enterprises on upcom.

Keywords: Voluntarily information disclosure, information of financial statements, influencing factors, information disclosure, UpCom.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 06 tháng 05/2017 tại đây