Dệt may hướng tới nâng cao tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1

Những nỗ lực của doanh nghiệp, cùng sự vào cuộc của cơ quan quản lý Nhà nước sẽ hợp lực tạo ra bước đi mạnh mẽ, hóa giải bài toán quy tắc xuất xứ trong các FTAs, để nâng cao tỷ lệ sử dụng C/O.

C/O mẫu EUR>1

Tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 không cao

Sau gần 3 năm thực thi EVFTA, bức tranh thương mại của Việt Nam sang EU tăng trưởng lạc quan. Năm 2022, dù đối mặt với những khó khăn của hậu Covid-19, tổng giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt hơn 46 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2021.

Trong số các mặt hàng “tỷ đô” sang EU năm 2022, xuất khẩu dệt may xếp thứ 5 với 4,46 tỷ USD, nhưng xếp thứ hai về tăng trưởng với mức tăng 34,7%, gấp hơn 2 lần so với mức tăng chung xuất khẩu vào EU.

Đáng chú ý, năm 2021, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu EUR.1 đạt khoảng 7,8 tỷ USD, đến 2022 đã là 12,1 tỷ USD, tăng gấp rưỡi. Một số nhóm hàng có tỷ lệ sử dụng ưu đãi C/O mẫu EUR.1 rất tốt như gạo (100%), giày dép (98,02%), thủy sản (76,9%), nhựa và sản phẩm nhựa (70,63%)…

Điều đáng quan tâm là dệt may không nằm trong nhóm hàng có tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 cao. Điều này một lần nữa cho thấy ưu đãi thuế quan có lẽ chỉ là một phần của vấn đề của xuất khẩu dật may, để tăng trưởng xuất khẩu ở thị trường có sức mua lớn thứ hai thế giới này, còn nhiều việc khác cần làm.

Ngoài việc lạm phát cao ở EU khiến tổng cầu hàng hóa có những dấu hiệu sụt giảm thì xu hướng mất giá trong một năm qua của đồng Euro; chính sách thương mại của EU cũng thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi sự tuân theo tiêu chuẩn cao về kỹ thuật, lao động, bảo vệ môi trường... đang tác động không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.

Trước hết, với việc đồng Euro mất giá là tín hiệu không tích cực cho hàng hóa XK của Việt Nam vào EU. Đồng Euro suy giảm, đồng nghĩa với việc hàng hóa nhập khẩu vào EU trở nên đắt đỏ hơn, từ đó khiến lạm phát thêm trầm trọng và làm giảm nhu cầu hàng hóa nhập khẩu từ các thị trường, trong đó có Việt Nam. Với doanh nghiệp giao dịch bằng đồng euro, việc đồng euro mất giá gây ảnh hưởng nhất định đến lợi nhuận, bởi cùng một lượng Euro thu về nhưng số tiền quy đổi ra nội tệ ít hơn.

Bên cạnh tác động chung đó, xuất khẩu dệt may sang thị trường EVFTA còn chịu sức ép riêng. Đó là cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Âu do xung đột địa chính trị đẩy lạm phát lên cao, đồng Euro mất giá kỷ lục. Hệ quả của đồng Euro mất giá là, một mặt làm cho hàng hóa nhập khẩu vào EU trở nên đắt đỏ hơn, giảm nhu cầu hàng nhập khẩu từ các thị trường, trong đó có Việt Nam; mặt khác, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU, giao dịch bằng đồng Euro bị ảnh hưởng đến lợi nhuận, bởi cùng một lượng Euro thu về nhưng số tiền quy đổi ra VND ít hơn trước.

Những doanh nghiệp tiên phong

Đầu tháng 4 vừa qua, Ủy ban châu Âu (EC) đã đề xuất áp dụng một số quy định sinh thái mới nhằm “xanh hóa” hàng dệt may tiêu thụ tại châu Âu. Quy định mới của EC yêu cầu hàng dệt may vào thị trường châu Âu phải có tuổi thọ cao, có thể tái sử dụng và sửa chữa được. Để đạt được tiêu chuẩn này, nhà sản xuất phải sử dụng sợi tái chế, không chứa chất độc hại, thân thiện với môi trường.

Không chỉ vậy, các nước Bắc Âu, gồm Iceland, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch và Phần Lan còn yêu cầu khắt khe hơn đối với sợi tự nhiên và sợi tổng hợp. Sợi dệt phải là sợi hữu cơ, tái chế hoặc có nguồn gốc sinh học. Bông được sử dụng trong quần áo  không làm được từ sản phẩm biến đổi gen (GMO) và phải là 100% hữu cơ hoặc tái chế. Len phải được chứng nhận hữu cơ hoặc tái chế. Riêng đối với quần áo bảo hộ lao động, sợi tổng hợp phải được tái chế hoặc làm từ nguyên liệu thô tái tạo. Sợi cellulose phải được chứng nhận FSC (Hội đồng quản lý rừng) hoặc PEFC (Chứng nhận tiêu chuẩn rừng)…

Những quy định này chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ tới các nhà cung ứng Việt Nam, bắt buộc ngành dệt may phải đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi xanh. Trước đó, một số doanh nghiệp ở cả 2 lĩnh vực dệt và may đã tiên phong “xanh hóa” nhằm đáp ứng các nhu cầu mới của khách hàng.

Trong lĩnh vực may, ông Thân Đức Việt, Tổng Giám đốc Tổng công ty May 10 khẳng định, hiện nay, toàn bộ hệ thống nhà máy của May 10 làm hàng xuất khẩu đều đảm bảo được yêu cầu của khách hàng. Ngoài câu chuyện nhà máy xanh, một yếu tố nữa phải nói đến là nguyên liệu xanh. Hiện nay, rất nhiều khách hàng yêu cầu May 10 phải sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên, nguyên liệu tái chế để không khai thác nhiều nguồn tài nguyên và sau khi sử dụng xong chỉ 5-10 năm tự phân huỷ.

Đối với sản xuất sợi, Công ty Kết nối thời trang - Faslink, đi tiên phong trong sản xuất vải công nghệ cao, có nguồn gốc tự nhiên, thân thiện với môi trường. Sợi của Faslink được làm từ 2 loại công nghệ: sinh học và polymer. Sản phẩm của 2 loại công nghệ là sợi làm từ sen, bã cà phê, bạc hà, sợi tái chế từ vỏ chai nhựa... Năm 2019, Faslink là công ty tiên phong trên thế giới thương mại hóa thành công áo sơ-mi, áo polo từ sợi cà phê.

Tuy nhiên, theo đánh giá của VITAS, việc phát triển chuỗi cung ứng xanh chưa phổ biến, chủ yếu mới nằm ở các doanh nghiệp tiên phong. Để toàn ngành nhập cuộc “xanh hóa”, khai thác có hiệu quả Hiệp định EVFTA, VITAS đặt ra mục tiêu trong năm 2023, giảm 15% tiêu thụ năng lượng, 20% tiêu thụ nước; đến năm 2030, chuyển đổi “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam, đồng thời xây dựng được 30 thương hiệu mang tầm quốc tế.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sử dụng C/O mẫu EUR.1 trong năm 2022 có sự gia tăng so với năm 2021 nhưng con số này vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chỉ gần 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. Như vậy, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU nhằm mục đích tận dụng ưu đãi thuế quan chưa đạt được mức kỳ vọng.

Có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hàng hóa xuất khẩu không sử dụng được C/O mẫu EUR.1 để hưởng ưu đãi thuế quan, gồm: Hàng hóa đã có thuế suất cơ sở nhập khẩu rất thấp hoặc bằng 0% hoặc không đáp ứng được quy tắc xuất xứ. Trong khi đó, biểu thuế nhập khẩu của EU, số lượng mặt hàng dệt may có thuế suất cơ sở là 0% rất ít, hầu hết thuế suất hàng dệt may của EU dao động từ 3% đến 12%.

Điểm nghẽn xuất xứ

Trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương hay đa phương, quy tắc xuất xứ của hàng hóa được sử dụng để  kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ các khu vực, với mục tiêu kép, vừa đảm bảo quyền lợi cho các quốc gia thành viên, vừa ngăn chặn hàng hóa của các quốc gia không nằm trong khu vực FTA mà vẫn được hưởng quyền lợi ưu đãi thuế quan.

Đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EVFTA, quy tắc xuất xứ hết sức quan trọng. Bởi theo cam kết của EVFTA, hàng dệt may được EU xóa bỏ thuế quan với 77,3% kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm, 22,7% kim ngạch còn lại cũng sẽ được EU xóa bỏ thuế quan sau 7 năm. Trong khi EU đang là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam, và dư địa tại thị trường này còn rất lớn khi thị phần dệt may may của chúng ta ở EU mới chiếm dưới 2% (4,46 tỷ USD/250 tỷ USD) 

Bài toán hiện nay đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may vào thị trường EU là quy tắc xuất xứ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, sản xuất vải trong nước mới đạt sản lượng 2 tỷ mét/năm, đáp ứng 25-30% nhu cầu. Trong khi vải nhập khẩu từ EU rất ít, không đến 5%. Phần lớn vải nhập khẩu vào nước ta từ các thị trường ngoài Hiệp định EVFTA. Cụ thể, năm 2022, nước ta nhập khẩu 14,09 tỷ USD vải may mặc, trong đó nhập từ Trung Quốc 52%.

Đến nay, Việt Nam đã ký thỏa thuận với Hàn Quốc triển khai điều khoản cộng gộp xuất xứ nguyên liệu dệt may giữa 2 nước. Việt Nam cũng đang triển khai đàm phán Nhật Bản để doanh nghiệp Việt Nam sử dụng vải Nhật được cộng gộp xuất xứ theo EVFTA. Nhưng ngay cả khi chúng ta đạt thỏa thuận xuất xứ cộng gộp với 2 nước nói trên, cũng mới chỉ tháo gỡ được một phần điểm nghẽn. Bởi lẽ, mặc dù EU cho phép sử dụng vải nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nhật Bản xuất khẩu sang EU, nhưng chỉ áp dụng với các sản phẩm dệt may thuộc Chương 61 và 62 của biểu thuế trong Hiệp định. Phần lớn các sản phẩm còn lại, phải sử dụng vải từ Việt Nam và EU mới được tính xuất xứ.

Lợi thế chuỗi

Việt Nam và EU khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA từ tháng 10 năm 2010. Đến háng 12 năm 2015 hai bên kết thúc đàm phán, bắt đầu rà soát pháp lý để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định. Như vậy, tín hiệu về tính khả thi về một hiệp định tự do thương mại đến từ rất sớm, trước 5 năm so với ngày EVFTA có hiệu lực (ngày 1/8/2022). Vậy thì tại sao không thể ra tạo ra một làn sóng đầu tư vào sản xuất vải đón đầu EVFTA? Nếu năm 2015, năm Việt Nam-EU kết thúc đàm phán, chuyển sang rà soát pháp lý, sản lượng vải may mặc đạt hơn 1,5 tỷ m2, đến tháng 8 năm 2020 khi EVFTA có hiệu lực, sản lượng vải may mặc mới đạt xấp xỉ 2 tỷ m2 - không được coi là bước đột phá so với tốc độ tăng từ 1,1 tỷ m2 năm 2010 lên 1,5 tỷ m2 năm 2015.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến không có nhiều doanh nghiệp đầu tư sản xuất vải, nhưng gút mắc chính vẫn là khả năng kết nối chuỗi cung ứng. Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt May Việt Nam cho rằng, nếu không nằm trong một chuỗi cung ứng cụ thể, sản xuất theo một địa chỉ cụ thể, rất khó để doanh nghiệp sản xuất vải có thể trụ được. Một mô hình điển hình là Việt Tiến ký hợp tác đầu tư nhà máy vải với Uniqlo, Uniqlo đặt hàng và yêu cầu Việt Tiến làm vải. Tức là doanh nghiệp đầu tư khi đã có sự phân chia (nhiệm vụ) trong chuỗi, còn nếu dàn hàng ngang tự đầu tư làm vải sẽ rất khó, vì chi phí đầu tư ở Việt Nam qua lớn.

Cho đến nay, hầu hết các dự án sản xuất vải thành công đều có sự liên kết theo chuỗi. Tổng Công ty CP Dệt May Hà Nội (Hanosimex) và Tập đoàn Hansae (Hàn Quốc) đã ký kết thỏa thuận xây dựng quan hệ hợp tác chiến lược và đặc quyền về dự án vải tái chế. Ngay sau buổi ký kết, đơn hàng đầu tiên, khoảng 4.000 tấn vải tái chế dành cho làm hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường EU đã được đưa vào sản xuất. Mới đây, Vinatex và Textile Company, một đơn vị thuộc Tập đoàn Itochu (Nhật Bản) đã bàn thảo hợp tác đầu tư vào các dự án sản xuất các sản phẩm dệt may “xanh”, đủ tiêu chuẩn làm hàng xuất khẩu đi châu Âu.

Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Dệt may và Da giày giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2035 đã định hướng thúc đẩy đầu tư sản xuất nguyên, phụ liệu ngành dệt may, da giầy, đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ của các FTA thế hệ mới, cũng như đẩy mạnh quá trình nội địa hóa; Đẩy mạnh chuyển từ gia công sản xuất sang các hình thức đòi hỏi năng lực cao hơn về quản lý chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị…

Những nỗ lực của doanh nghiệp, cùng sự vào cuộc của cơ quan quản lý Nhà nước sẽ hợp lực tạo ra bước đi mạnh mẽ, hóa giải bài toán quy tắc xuất xứ để nâng cao tỷ lệ sử dụng C/O.

Phục Linh