Vai trò của vốn xã hội và nhóm các yếu tố liên quan đối với những mối quan hệ giữa việc cởi mở và sự sáng tạo của nhóm lên hiệu suất của nhóm sản phẩm mới (NPD)

Bài báo nghiên cứu "Vai trò của vốn xã hội và nhóm các yếu tố liên quan đối với những mối quan hệ giữa việc cởi mở và sự sáng tạo của nhóm lên hiệu suất của nhóm sản phẩm mới (NPD)" do Nguyễn Phước Thiện (Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP. Hồ Chí Minh) - Nguyễn Thanh Lâm (Trường ĐH Kinh tế - Tài chính TP. Hồ Chí Minh) - Trương Chí Trung (Trường ĐH Công nghệ Đồng Nai) - Phan Thanh Tâm và Huỳnh Kim Ngân (Trường ĐH Lương Thế Vinh) thực hiện.

Tóm tắt:

    Nghiên cứu xác định vai trò của vốn xã hội và nhóm các yếu tố liên quan đối với những mối quan hệ giữa việc cởi mở và sự sáng tạo của nhóm lên hiệu suất của nhóm sản phẩm mới (New Product Development - NPD). Với mục đích kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu, nhóm tác giả đã tiến hành thực hiện một cuộc khảo sát. Dữ liệu được thu thập từ 225 thành viên trong NPD và được phân tích thêm bằng phương pháp Hồi quy bình phương nhỏ nhất một phần (hồi quy PLS). Kết quả xác định trong việc cởi mở và khả năng sáng tạo của nhóm được thể hiện là những biến trung gian có sự liên quan đến nhau, mà những biến trung gian nhóm sáng tạo thực sự có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu suất NPD.

Từ khóa: hiệu suất của nhóm sản phẩm mới, sự sáng tạo, việc cởi mở nhóm, vốn xã hội.

1. Đặt vấn đề

    Một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự tồn tại của các công ty là năng lực của họ trong việc tạo ra và phát triển các ý tưởng mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng (Im & Workman, 2004). Do đó, đổi mới và sáng tạo là cần thiết để phát triển sản phẩm mới (NPD) và dẫn dắt các công ty xây dựng một lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, mang lại cơ hội kinh doanh (Cho & Pucik, 2005; Hult, Hurley, & Knight, 2004). Hay để tạo ra sự thành công của NPD, định hướng đổi mới của một công ty đã được xác định là tiền đề chính có thể dẫn đến thành công của sản phẩm mới (Im & Workman, 2004; Zhou, Yim, & Tse, 2005). Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây liên quan đến ảnh hưởng của định hướng đổi mới đối với sự thành công của sản phẩm mới là chưa kết luận. Ví dụ, trong bối cảnh văn hóa Đông Á, Zhang và Duan (2010) đã tìm thấy tác động tích cực và đáng kể của định hướng đổi mới đối với sự thành công của sản phẩm mới. Mặt khác, thông qua một mẫu xuyên quốc gia của các công ty sản xuất được niêm yết công khai, Talke, Salomo và Kock (2011) nhận thấy không có mối quan hệ đáng kể nào giữa các định hướng đổi mới đối với hiệu suất hoạt động của thị trường sản phẩm. Theo hướng tương tự, Zhang và Zhu (2015) đã kiểm tra các nhà xuất khẩu trong các lĩnh vực sản xuất ở Trung Quốc và kết quả của họ cho thấy không có mối quan hệ đáng kể nào giữa các định hướng đổi mới và hiệu suất của sản phẩm mới. Các lý do cho kết quả mâu thuẫn này rất đa dạng. Một trong những lập luận cho rằng cần phải có thêm một số biến trung gian để làm trung gian cho ảnh hưởng của định hướng đổi mới đối với hiệu suất hoạt động của NPD đã bị bỏ quên trong các tài liệu hiện tại.

Với sự hạn chế của số lượng các nghiên cứu trước đây, nên các kết quả nghiên cứu chỉ mở rộng sự hiểu biết về mối quan hệ giữa việc cởi mở nhóm, nhóm sự sáng tạo và hiệu suất NPD. Do đó, các nhà nghiên cứu học thuật có thể xác định thêm quy trình trung gian khác để giải thích các mối liên hệ còn thiếu giữa việc cởi mở nhóm, sự sáng tạo của nhóm và hiệu suất NPD.

2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

2.1. Sự ảnh hưởng của việc cởi mở nhóm với sự sáng tạo của nhóm 

    Sự cởi mở nhóm đã xuất hiện trong tài liệu gần 30 năm trước, tuy nhiên, nó đã ít được chú ý trong tài liệu về NPD (Akgün và cộng sự, 2003). Dựa trên lý thuyết thích ứng của tổ chức (Cyert & March, 1963), nó đã chứng minh rằng tác động của các lực lượng môi trường ngăn cản sự đổi mới. Tuy nhiên, không mở rộng kinh doanh có thể làm giảm khả năng của các tổ chức trong việc ứng phó với các mối đe dọa và cơ hội do sự năng động của thị trường gây ra, cũng như học hỏi những điều mới để nâng cao tính sáng tạo và đổi mới (Akgün và cộng sự, 2006; Tsang & Zahra, 2008). Dựa trên những giải thích ở trên, nghiên cứu này đề xuất giả thuyết sau:

H1: Việc cởi mở nhóm có mối liên quan tương quan thuận chiều với sự sáng tạo của nhóm.

2.2.  Sự sáng tạo nhóm ảnh hưởng tới hiệu suất của NPD

    Dựa trên quan điểm cơ sở nguồn lực mà các tổ chức hay doanh nghiệp có khả năng tích lũy ý tưởng sáng tạo thì có nhiều khả năng cung cấp giá trị vượt trội tới khách hàng thông qua việc phát triển nhiều sản phẩm tốt và độc đáo hơn (Im, Montoya, & Workman, 2013). Theo kết quả của các nghiên cứu trước đây, sự sáng tạo tập trung nhiều hơn vào việc tạo ra các ý tưởng hữu ích hoặc mới lạ (West, 2002). Sự sáng tạo nằm ở bên trong quá trình làm việc đổi mới, liên quan nhiều hơn đến việc thực hiện các ý tưởng mới. Luồng ý tưởng mới cũng có thể tăng lên do ảnh hưởng của nó đến thành công của NPD. Do đó, có thể lập luận, sáng tạo là một hành vi phù hợp để kích thích sự thành công của NPD. Thêm vào đó, Szymanski, Kroff và Troy (2007) đã phát hiện ra rằng đổi mới như một quá trình sáng tạo có liên quan tích cực với hiệu suất NPD. Hơn thế nữa, Amara, Landry, Becheikh và Quimet (2008) cho rằng sản phẩm có tính sáng tạo càng cao thì càng có xu hướng nâng cao thành công của NPD. Dựa trên những giải thích ở trên, nghiên cứu này đề xuất giả thuyết sau:

H2: Sự sáng tạo của nhóm có mối liên quan tương quan thuận chiều với NPD.

2.3.  Việc cởi mở nhóm ảnh hướng tới hiệu suất của NPD

    Rút ra từ lý thuyết nhận thức xã hội, việc đổi mới nhóm có thể kích hoạt việc học các thói quen tạo một lộ trình mới, hay niềm tin mới có thể củng cố cơ hội thành công trong quá trình học tập và do đó cải thiện thành công của sản phẩm mới (NPD) (Akgün, Lynn, Keskin, & Dogan, 2014). Việc cởi mở nhóm có thể cho phép tích hợp thông tin mới liên quan đến thị trường, đối thủ cạnh tranh, kỹ thuật ở dạng hiệu quả. Được chứng minh bởi Hackman (1990), khi một nhóm lặp đi lặp lại một kiểu hành vi tương tự dưới một công việc cụ thể mà không xem xét các hình thức hành vi khác nhau thì quá trình học tập sẽ không hiệu quả (Akgün và cộng sự, 2014). Trong trường hợp không thể tạo ra những thay đổi trong sản xuất này, nó sẽ tác động tiêu cực đến sự thành công của việc phát triển các sản phẩm mới. Dựa trên lý thuyết thích ứng của tổ chức, nghiên cứu này lập luận rằng các tổ chức cần phải ứng phó với ảnh hưởng của các lực lượng môi trường. Nói cách khác, các tổ chức phải linh hoạt để thực hiện các quy tắc và thủ tục mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NPD. Dựa trên những giải thích ở trên, nghiên cứu này đưa ra giả thuyết về phát biểu sau:

H3: Việc cởi mở nhóm có mối liên quan tương quan thuận chiều với NPD.

3.       Kết quả và thảo luận

3.1. Đặc điểm các mẫu khảo sát 

    Mẫu khảo sát gồm 80 nhóm, mỗi nhóm gồm 1 trưởng nhóm và 2 đến 4 thành viên thuộc nhóm. Hầu hết các nhóm đều nằm trong các công ty hoạt động ở ngành công nghệ cao (65,4%), tiếp theo là ngành truyền thống (20,2%). Gần 50% công ty được thành lập hơn 16 năm và đạt doanh thu hơn 100 triệu USD (66,2%). Hơn 20% các công ty có hơn 500 nhân viên và các công ty còn lại có ít hơn 500 nhân viên.

    Thêm vào đó, gần 60% những người tham gia nghiên cứu này đã có thời gian làm việc lâu dài trong công ty (hơn 6 năm) và đã tham gia vào hơn 5 dự án NPD. Để làm rõ sự phức tạp của dự án NPD, nghiên cứu này cũng yêu cầu các trưởng nhóm và các thành viên trong nhóm tập trung vào dự án mà họ đã được chỉ định trong 6 tháng qua. Một nửa trong số họ chỉ ra rằng dự án hoàn toàn mới và một nửa trong số họ phát triển dựa trên nền tảng hiện có. Cuối cùng, nghiên cứu này bao gồm 225 thành viên trong nhóm (75,5%) và 73 trưởng nhóm (24,5%). Sau khi tiến hành kỹ thuật kiểm tra thử (t-test technique), nhóm tác giả loại bỏ bất kỳ sự khác biệt nào giữa hai nhóm này (p <0,05).

3.2. Đánh giá mô hình nghiên cứu

    Theo Hair và đồng nghiệp (2011), mặc dù mô hình phương trình cấu trúc dựa trên hiệp phương sai (CB-SEM) đã chiếm ưu thế kể từ lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1980, SEM bình phương nhỏ nhất một phần (PLS-SEM) đã thu hút rất nhiều sự chú ý trong những năm gần đây. Trong khi CB-SEM nhằm mục đích tái tạo ma trận hiệp phương sai lý thuyết hơn là dựa trên phương sai được giải thích, PLS-SEM tập trung vào việc tối đa hóa phương sai được giải thích của các cấu trúc tiềm ẩn phụ thuộc. Do đó, mô hình hóa đường dẫn PLS ngày càng phổ biến trong giới nghiên cứu marketing, vì khả năng mô hình hóa các cấu trúc tiềm ẩn trong các điều kiện phân phối không chuẩn với kích thước mẫu vừa và nhỏ (Hair và cộng sự, 2011). Hơn nữa, PLS đã được công nhận là một kỹ thuật phân tích hiệu quả, đặc biệt đối với những nghiên cứu tập trung vào dự đoán kết quả (Chin, Marcolin, & Newsted, 2003). Thêm vào đó, Hair và cộng sự (2011) cho rằng mô hình hóa đường dẫn PLS-SEM có thể là một “viên đạn bạc” để cung cấp các tham số có thể tối đa hóa phương sai được giải thích (giá trị R2) của các cấu trúc phụ thuộc.

Bên cạnh đó, các giả thuyết nghiên cứu đã được kiểm tra bằng cách sử dụng các ước lượng tham số của các đường dẫn giữa các cấu trúc nghiên cứu. Theo 1 mẫu gồm 286, quy trình khởi động kiểm định phi tham số đã được áp dụng với 2.500 mẫu phụ để có được ý nghĩa thống kê của mỗi hệ số đường dẫn để kiểm định giả thuyết. Thêm vào đó, chỉ số mức độ phù hợp (GoF) của mô hình nghiên cứu này là 0,535, được xem là lớn. Kết quả này đã xác nhận, mô hình nghiên cứu hoàn toàn phù hợp và có khả năng dự đoán cao. (Xem Bảng)

Bảng. Đánh giá mô hình cấu trúc và kiểm tra giả thuyết

Giả thuyết

Đường dẫn

Độ lệch chuẩn

t-value

p-value

H1

Việc cởi mở nhóm -> Sự sáng tạo của nhóm

0.195

2.087

***

H2

Sự sáng tạo của nhóm -> hiệu suất của NPD

0.830

15.722

***

H3

Việc cởi mở nhóm -> hiệu suất của NPD

0.115

2.360

***

    Nguồn: Nhóm tác giả thực hiện

Để xác thực việc kiểm định giả thuyết, nhóm tác giả đã quan sát kết quả kiểm định đường dẫn Xem Bảng)). Các kết quả thực nghiệm đã chứng minh, việc cởi mở nhóm có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sáng tạo của nhóm (β = 0,195; p <0,01) và hiệu suất NPD (β = 0,115; p <0,01), do đó, H1 và H3 được chấp nhận. Bên cạnh đó, sự sáng tạo của nhóm có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất NPD (β = 0,830; p <0,01), do đó, H3 được chấp nhận.

4. Kết luận và khuyến nghị giải pháp

Nghiên cứu này nhằm mục đích kiểm tra các tác động của việc không tập trung vào nhóm, khả năng sáng tạo của nhóm và hiệu suất NPD. Một số kết luận có thể được rút ra từ kết quả của nghiên cứu này.

    Thứ nhất, nhóm có sự đổi mới có xu hướng tác động thuận chiều đến khả năng sáng tạo của nhóm. Trong bối cảnh thị trường có tính năng động cao, các nhóm NPD nên mở rộng khả năng tăng cường phát triển ý tưởng mới và học hỏi những điều mới của nhóm có thể nuôi dưỡng sự sáng tạo của nhóm (Akgün và cộng sự, 2006; Tsang & Zahra, 2008). Thứ hai, sự sáng tạo của nhóm có xu hướng ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất NPD. Theo như Szymanski và cộng sự (2007), đội ngũ có mức độ sáng tạo cao, càng làm gia tăng sự đổi mới trong công việc của họ đến quy trình sản phẩm mới. Thứ ba, việc cởi mở nhóm có sự tương quan thuận chiều đến hiệu suất NPD. Những phát hiện nghiên cứu này phù hợp với Talke và cộng sự (2011) và Zhang và Zhu’s (2015).

    Mặc dù những phát hiện của nghiên cứu này mang lại cảm hứng và thu hút sự chú ý đến các cơ chế trung gian giải thích mối liên hệ giữa việc cởi mở nhóm và hiệu suất của NPD. Vì vậy, vẫn còn một số hạn chế đề xuất một số hướng đi cho nghiên cứu trong tương lai. Đầu tiên, nghiên cứu này phát triển một mô hình nghiên cứu toàn diện có chứa các kết quả của nghiên cứu trước đây và sự sáng tạo của những cái mới.

    Do tầm quan trọng và sự phức tạp của việc hình thành việc cởi mở nhóm, khả năng phản xạ của nhóm và sự sáng tạo của nhóm, nghiên cứu trong tương lai có thể thực hiện một phương pháp định tính và cũng là một cách tiếp cận theo chiều dọc để kiểm tra khả năng tổng quát hóa các kết quả nghiên cứu hiện tại. Vì nghiên cứu này sử dụng các công ty công nghệ cao làm mục tiêu cho cuộc khảo sát bảng câu hỏi, nghiên cứu trong tương lai có thể bao gồm các bối cảnh của tổ chức khác để kiểm tra tính tổng quát của các kết quả nghiên cứu. Điểm đáng chú ý là nghiên cứu trong tương lai bao gồm các khuôn mẫu kết quả được bổ sung để hiểu rõ hơn về tác động của những nhà nghiên cứu khác trong việc giải thích các mối liên hệ còn thiếu sót giữa việc cởi mở nhóm và hiệu suất NPD.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Akgün A. E., Lynn G. S., & Byrne J. C. (2003). Organizational learning: A socio-cognitive framework. Human relations, 56(7), 839-868.
  2. Akgün A. E., Lynn G. S., Keskin H., & Dogan D. (2014). Team learning in IT implementation projects: Antecedents and consequences. International Journal of Information Management, 34(1), 37-47.
  3. Akgün A. E., Lynn G. S., & Byrne J. C. (2006). Antecedents and consequences of unlearning in new product development teams. Journal of Product Innovation Management, 23(1), 73-88.
  4. Amara N., Landry R., Becheikh N., & Quimet M. (2008). Learning and novelty of innovation in established manufacturing SMEs. Technovation, 28(7), 450-463.
  5. Chin W. W., Marcolin B. L., & Newsted P. R. (2003). A partial least squares latent variable modeling approach for measuring interaction effects: Results from a Monte Carlo simulation study and an electronic-mail emotion/adoption study. Information systems research, 14(2), 189-217.
  6. Cho H.-J., & Pucik V. (2005). Relationship between innovativeness, quality, growth, profitability, and market value. Strategic Management Journal, 26(6), 555-575.
  7. Cyert R. M., & March J. G. (1963). A behavioral theory of the firm. Englewood Cliffs, NJ, 2.
  8. Hackman M. Z., & Walker K. B. (1990). Instructional communication in the televised classroom: The effects of system design and teacher immediacy on student learning and satisfaction. Communication Education, 39(3), 196-206.
  9. Hair J., Black W., Babin B. J., & Anderson R. E. (2011). Multivariate data analysis (7th ed.). New Jersey: Prentice Hall.
  10.  Hult G. T. M., Hurley R. F., & Knight G. A. (2004). Innovativeness: Its antecedents and impact on business performance. Industrial Marketing Management, 33(5), 429-438.
  11.  Im S., Montoya M., & Workman Jr. J. (2013). Antecedents and Consequences of Creativity in Product Innovation Teams. Journal of Product Innovation Management, 30(1), 170-185.
  12.  Im S., & Workman Jr. J. (2004). Market orientation, creativity, and new Product Performance in high-technology firms. Journal of Marketing, 68(2), 114-132.
  13.  Szymanski D. M., Kroff M. W., & Troy L. C. (2007). Innovativeness and new product success: insights from the cumulative evidence. Journal of the Academy of Marketing Science, 35(1), 35-52.
  14.  Talke K., Salomo S., & Kock A. (2011). Top management team diversity and strategic innovation orientation: The relationship and consequences for innovativeness and performance. Journal of Product Innovation Management, 28(6), 819-832.
  15.  Tsang E. W., & Zahra S. A. (2008). Organizational unlearning. Human Relations, 61(10), 1435-1462.
  16.  West M. A. (2002). Sparkling fountains or stagnant ponds: An integrative model of creativity and innovation implementation in work groups. Applied Psychology, 51(3), 355-387.
  17.  Zhang J., & Zhu M. (2015). Market orientation, product innovation and export performance: Evidence from Chinese manufacturers. Journal of Strategic Marketing, 23(3), 367-385
  18.  Zhang J., & Duan Y. (2010). Empirical study on the impact of market orientation and innovation orientation on new product performance of Chinese manufacturers. Nankai Business Review International, 1(2), 214-231.
  19.  Zhou K. Z., Yim C. K., & Tse D. K. (2005). The effects of strategic orientations on technology-and market-based breakthrough innovations. Journal of Marketing, 69(2), 42-60.

 

The moderating roles of social capital and team-related factors in the relationships

between team openness, creativity, and new product development performance 

Nguyen Phuoc Thien1

Nguyen Thanh Lam2

 Truong Chi Trung3

Phan Thanh Tam 4

Huynh Kim Ngan4

1 Faculty of Business Administration, University of Economics Ho Chi Minh City

2 Faculty of Finance and Commerce, University of Economics Ho Chi Minh City 

3 Dong Nai Technology University

4 Luong The Vinh University

This study identified the roles of social capital and team-related factors in the relationships between team openness, creativity, and new product development (NPD) performance. To test the study’s hypotheses, a self-administered survey was conducted. The study’s data was collected from 225 NPD team members and then analyzed by the Partial Least Squares (PLS) analysis method. The study found that team openness and team creativity are relevant mediators, and team creativity has significant influences on NPD performance. 

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 11 tháng 5 năm 2024]