Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học

ThS. Lưu Hoàng Giang (Trường Đại học Văn Hiến); ThS. Cao Thị Thanh Trúc (Trường Đại học Văn Hiến)

TÓM TẮT:

Nghiên cứu nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học. Kết quả, trên 285 mẫu khảo sát cho thấy các yếu tố (văn hóa chấp nhận rủi ro; sinh viên tài năng, đa dạng và giàu trí tưởng tượng; nguồn vốn dồi dào; hợp tác với ngành công nghiệp; hỗ trợ của chính phủ) giải thích được sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học. Kết quả cũng cho thấy, sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp có tác động tích cực từ cao đến thấp với 5 yếu tố, gồm: Văn hóa chấp nhận rủi ro (β = 0.785), Sinh viên tài năng, đa dạng và giàu trí tưởng tượng (β = 0.181), Hỗ trợ của chính phủ (β = 0.065), Hợp tác với ngành công nghiệp (β = 0.061) và Nguồn vốn dồi dào (β = 0.054).

Từ khóa: Hệ sinh thái, khởi nghiệp, văn hóa, rủi ro, nguồn vốn, sự thành công, TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

Ngày nay, kinh doanh trở thành nhân tố quyết định sự phát triển đối với tất cả các quốc gia. Bởi vậy, rất nhiều cuộc hội thảo, hội nghị được tổ chức hàng năm trên thế giới đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tinh thần kinh doanh đối với đất nước, xã hội cũng như sự phát triển của cá nhân (Schaper & Volery, 2004; Matlay & Westhead, 2005).

Lee & cộng sự (2006) cho rằng, tinh thần khởi nghiệp được chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Sobel & King (2008) nhận định, khởi nghiệp là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy, việc thúc đẩy giới trẻ khởi nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách.

Tầm quan trọng của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói riêng cũng vì thế đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế, các học giả và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; đồng thời giáo dục tinh thần kinh doanh cho sinh viên đại học đã trở thành một chủ đề quan trọng trong các trường đại học.

Astebro & cộng sự (2012) cung cấp bằng chứng ở Mỹ cho thấy, khởi nghiệp không chỉ là chương trình dành riêng cho sinh viên ngành kinh doanh, mà còn là chương trình quan trọng đối với sinh viên thuộc khối khoa học tự nhiên, kỹ thuật và thậm chí cả trong lĩnh vực nghệ thuật (Geiger-Ho & Ho, 2014). Ở mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét đặc trưng riêng về văn hóa, kinh tế, chính trị, vì thế nghiên cứu tính đặc thù riêng về khởi nghiệp sẽ đóng góp một phần quan trọng cho giáo dục khởi nghiệp.

Ở Việt Nam hiện nay chỉ mới có một số ít bài viết về tinh thần doanh nhân được đăng tải trên một số tạp chí khoa học trong nước, nhưng chỉ dưới góc độ chia sẻ kinh nghiệm về tinh thần doanh nhân, hoặc xây dựng hệ giá trị văn hóa doanh nhân cho giới kinh doanh. Cho đến nay, cả nước có trên 450 trường đại học, cao đẳng và tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, trong đó tại TP. Hồ Chí Minh có trên 90 trường đại học, cao đẳng, với hơn 600.000 sinh viên hội tụ từ tất cả các vùng, miền trên phạm vi cả nước.

Tuy nhiên, số lượng và tỉ lệ sinh viên khởi nghiệp kinh doanh của Việt Nam nói chung và của TP. Hồ Chí Minh nói riêng trên tổng số sinh viên và tổng số dân còn rất thấp. Bởi vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học và chủ yếu dựa trên ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên đặt cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chương trình giáo dục khởi nghiệp kinh doanh trong các trường đại học và các chính sách tạo lập môi trường và các giải pháp kích thích tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên trong bối cảnh hiện nay.

2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu

Hệ sinh thái khởi nghiệp là tập hợp các doanh nghiệp khởi nghiệp (đóng vai trò trung tâm, dẫn dắt và lãnh đạo hệ sinh thái khởi nghiệp) và các bên liên quan khác (đóng vai trò hỗ trợ), bao gồm nhưng không giới hạn các tổ chức hỗ trợ, các tổ chức tài trợ vốn, các doanh nghiệp lớn, các trường đại học, các nhà cung cấp dịch vụ,… có mối quan hệ hữu cơ, cùng tồn tại và phát triển bền vững. Nhà nước có vai trò hỗ trợ, tạo dựng môi trường pháp lý cho hệ sinh thái khởi nghiệp phát triển. Sức mạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp tùy thuộc vào sự “gắn kết” chặt chẽ của các thành phần bên trong hệ sinh thái khởi nghiệp.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD), Hệ sinh thái khởi nghiệp là “tổng hợp các mối liên kết chính thức và phi chính thức giữa: các chủ thể khởi nghiệp; tổ chức khởi nghiệp; các cơ quan liên quan và tiến trình khởi nghiệp tác động trực tiếp đến môi trường khởi nghiệp tại địa phương” (Mason, C. & Brown, R., 2014).

Dựa trên quan điểm sinh viên cùng với phân tích lịch sử về nguồn gốc của hệ sinh thái khởi nghiệp, chúng tôi tin rằng 6 điều kiện đã giúp tạo ra sự khởi nghiệp và đổi mới công nghệ. Chúng tôi thảo luận về từng yếu tố trong phần này: văn hóa chấp nhận rủi ro; sinh viên tài năng, đa dạng và giàu trí tưởng tượng; cộng đồng mang lại, nguồn vốn dồi dào, hợp tác với ngành công nghiệp và hỗ trợ của chính phủ.

2.1. Văn hóa chấp nhận rủi ro

William Miller, một cựu hiệu trưởng Stanford và một cựu giáo sư khoa học máy tính, đã phản ánh rằng, Stanford nổi bật chính xác, bởi vì nó dạy cho sinh viên của mình không có gì thất bại(1). Bài phát biểu bắt đầu của Steve Jobs (2005) tại Stanford đã khuyến khích các sinh viên tốt nghiệp đến đó ở lại. Hãy cứ dại dột(2). Lời khuyên của anh ấy dành cho sinh viên đã củng cố những gì giảng viên và cựu sinh viên đã nói với sinh viên từ lâu, không nên để ý kiến của người khác ảnh hưởng đến ý kiến ​​của bạn. Và quan trọng nhất, hãy can đảm đi theo trái tim và trực giác của bạn.

Sinh viên từ lâu đã là tác nhân của sự thay đổi xã hội (quyền dân sự và phong trào quyền phụ nữ), sự thay đổi văn hóa (nhiều thể loại âm nhạc) và thay đổi chính trị (chiến tranh). Hiện nay, có thể nói như vậy trong cả hai lĩnh vực kinh tế và công nghệ. Sinh viên trong các cơ sở trên khắp Hoa Kỳ đã thay đổi thế giới kinh doanh và công nghệ thông qua các công ty như Yahoo, Google, Facebook và Box. Những sinh viên như vậy đủ tài năng để thành lập công ty và thực tế về nỗ lực và thời gian cần thiết để thành công(3). Tài năng của sinh viên từ lâu đã chấp nhận văn hóa này và tham vọng thay đổi thế giới thông qua công nghệ và sản phẩm mới.

2.2. Sinh viên tài năng, đa dạng và giàu trí tưởng tượng

Các sinh viên của trường có hình chữ T, mà John Hennessy, chủ tịch của Stanford, muốn trường học khắc sâu, là những chuyên gia trong một lĩnh vực, nhưng cũng được giáo dục rộng rãi. Sinh viên hình chữ T không chỉ có khả năng suy nghĩ trực giao, mà còn là những cá nhân nhận ra rằng các đội là cần thiết để xây dựng các sản phẩm tuyệt vời. Do đó, họ không chỉ tập trung vào các kỹ năng cá nhân, mà còn phát triển các kỹ năng làm việc nhóm mạnh mẽ. Các giáo sư ở các khoa khác nhau cũng nhận ra sự cần thiết của sinh viên hình chữ T và khuyến khích sinh viên của họ phát triển theo hướng đó. Sự hợp tác bắt đầu trong môi trường đại học tạo thành nền tảng của sự hợp tác trọn đời, chẳng hạn như mối quan hệ ngành công nghiệp với chính phủ và trường đại học.

Loại hình giáo dục này giúp củng cố các quan niệm của một cộng đồng. Bản chất của khởi nghiệp đòi hỏi sinh viên và doanh nhân phải tiếp cận cộng đồng rộng lớn hơn để xây dựng chuyên môn mà mọi công ty yêu cầu: kỹ sư, nhà thiết kế và sinh viên có đầu óc kinh doanh. Ngoài ra, các lớp khởi động trong khuôn viên trường thúc đẩy các đội có nhiều nền tảng khác nhau. Tại trường học, sự đa dạng được xác định bởi các chuyên ngành bởi những người có suy nghĩ khác biệt(4).

2.3. Nguồn vốn dồi dào

Tài trợ là một thành phần quan trọng để giúp các ý tưởng của sinh viên trở thành hiện thực. Stanford may mắn có nhiều nhà đầu tư mạo hiểm rất gần với khuôn viên trên đường Sand Hill và trên đại lộ Đại học. Sinh viên Stanford muốn tài trợ cho một công ty khởi nghiệp có nhiều cơ hội để trình bày ý tưởng hoặc nguyên mẫu của họ cho các nhà đầu tư. Có rất nhiều cơ hội để gặp gỡ và kết nối với các nhà đầu tư tiềm năng, từ các cuộc thi khởi nghiệp (BASES 150K/E-Challenge), đến các lớp học (Launchpad và Tạo khởi nghiệp), gặp gỡ các giảng viên bên ngoài lớp để thảo luận về các ý tưởng khởi nghiệp tiềm năng. Sinh viên cũng có thể phát triển các công ty khởi nghiệp của mình trong một số máy gia tốc và máy ấp trứng gần trường, cho dù đó là StartX do Stanford thành lập hay tại Chương trình Y Combinator hoặc Chương trình học bổng mùa hè của Lightspeed(5).

2.4. Hợp tác với ngành công nghiệp

Terman không chỉ thuyết phục các sinh viên giỏi nhất của mình xây dựng doanh nghiệp tại địa phương mà còn thành lập Công viên nghiên cứu Stanford, nơi cung cấp bất động sản đối với các công ty như Hewlett-Packard, General Electric, Lockheed và Facebook(6). Ngoài ra, Terman thúc đẩy chương trình liên kết công nghiệp, trong đó các công ty nhận được quyền truy cập vào kết quả nghiên cứu và có thể tham gia các hội nghị và hội thảo đặc biệt quan tâm để đổi lấy đóng góp tài chính hàng năm đến phòng thí nghiệm nghiên cứu hoặc bộ phận tài trợ(7).

Ngành công nghiệp cũng hỗ trợ giáo dục và chuẩn bị cho sinh viên lực lượng lao động thông qua các chương trình như chương trình học giả đổi mới (AIS) của Accel, được tài trợ bởi Accel Partners. Mục tiêu của AIS là chuẩn bị 12 sinh viên tiến sĩ kỹ thuật Stanford trở thành những nhà lãnh đạo doanh nhân bằng cách giáo dục họ thông qua các diễn giả, dự án, chuyến đi thực địa và hội thảo. Học sinh tham gia sẽ có các cố vấn trong ngành liên quan đến lĩnh vực học tập của họ(8).

2.5. Hỗ trợ của chính phủ

Một khía cạnh thường xuyên bị bỏ qua của thành công trong nghiên cứu và đổi mới của Stanford là sự hỗ trợ rất lớn của chính phủ trong việc tài trợ cho nghiên cứu tiên tiến. Cơ bản, Stanford là một trường đại học nghiên cứu. Nguồn chính, gần như độc quyền của ngân sách nghiên cứu là chính phủ liên bang, đặc biệt là NIH, NSF, Bộ Quốc phòng và nhiều cơ quan liên bang khác. Hạn chế và nguồn tài trợ lớn đáng kể để xây dựng các chương trình nghiên cứu học thuật, trái ngược với các nhà tài trợ trong ngành mà chỉ muốn tài trợ cho công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ(9).

Từ những tài liệu nêu trên, kết hợp với đặc điểm của sinh viên nói chung, tác giả đề xuất các yếu tố thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học ở TP. Hồ Chí Minh như sau: (Hình 1)

Hình 1: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học

hinh 1

3. Phương pháp phân tích

3.1. Mẫu và phương pháp phân tích

Theo Hair và cộng sự (1998), kích thước mẫu tối thiểu phải từ 100 đến 150, theo Hoelter (1983), kích thước mẫu tới hạn phải là 200. Tuy nhiên, để đảm bảo kích cỡ mẫu đủ lớn và giá trị kết quả trong các phân tích kiểm định T-test và ANOVA, trong nghiên cứu kích cỡ mẫu dự kiến là 310. Mẫu nghiên cứu được thu thập từ 310 sinh viên đang học tại các trường đại học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Phương pháp phân tích dữ liệu chính trong nghiên cứu là phân tích hồi qui tuyến tính bội, công cụ phân tích dữ liệu: sử dụng thống kê mô tả và phần mềm SPSS 22.0 để phân tích dữ liệu.

3.2. Cấu trúc mẫu khảo sát

Có 285 bản khảo sát được sử dụng cho phân tích dữ liệu, tỷ lệ nam và nữ có sự chênh lệch nhau, nam chiếm 66,67%, nữ chiếm 33,33%. Đối tượng khảo sát nằm trong độ tuổi 19 đến 21 tuổi đang theo học đại học tại các trường đại học.

4. Kết quả

Kết quả phân tích EFA cho thấy có 28 biến quan sát trong các nhân tố ảnh hưởng sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp. Hệ số KMO = 0,785 nên EFA phù hợp với dữ liệu, do vậy các biến quan sát có tương quan với nhau xét trên phạm vi của tổng thể. Kết quả cũng đạt được yêu cầu về độ tin cậy. Do vậy, các thang đo đã phân tích là chấp nhận được. (Bảng 1).

Bảng 1. Kết quả EFA cho các thang đo ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học

bang 1

Kết quả phân tích hồi qui bội sử dụng phương pháp Enter Coefficientsa cho thấy rằng tất cả 5 nhân tố thuộc thang đo đều có tác động dương đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp trong trường đại học (STC) với mức ý nghĩa từ Sig đều nhỏ hơn 0,05 ở tất cả các biến. Kết quả trị số thống kê F đạt giá trị 405,532 được tính từ giá trị R2 là 0,825 và R điều chỉnh là 0822 của mô hình đầy đủ, tại mức ý nghĩa Sig = 0,000. 

Phương trình hồi quy với các biến hệ số chuẩn hóa có dạng như sau:

F = +0,681*VH + 0,325*SVTN + 0,048*NV + 0,034*HT + 0,072*CP

Trong mô hình cho thấy R2 là 0,825 và R điều chỉnh là 0,822 có nghĩa là mô hình hồi qui tuyến tính đã xây dựng phù hợp với tập dữ liệu R2 > 0,5, như vậy mô hình nghiên cứu là phù hợp.

5. Kết luận

Kết quả cho thấy, có 5 yếu tố ảnh hưởng dương đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp và có ý nghĩa ở mức kiểm định 5%, vì vậy các giả thuyết được chấp nhận.

Cụ thể, yếu tố VH (Văn hóa chấp nhận rủi ro) có ảnh hưởng mạnh nhất với β (chuẩn hóa) = 0.785. Điều này cho thấy văn hóa chấp nhận rủi ro là yếu tố quan trọng đối với sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp, yếu tố SVTN (sinh viên tài năng, đa dạng và giàu trí tưởng tượng) với β = 0.181 có ảnh hưởng mạnh chỉ sau yếu tố VH, yếu tố CP (hỗ trợ của chính phủ) với β = 0.065, yếu tố HT (hợp tác với ngành công nghiệp) với β =  0.061 và yếu tố NV (nguồn vốn dồi dào) với β = 0.054 là yếu tố có ảnh hưởng thấp nhất.

Từ những phân tích trên, ta kết luận rằng mô hình lý thuyết phù hợp với dữ liệu nghiên cứu và 5 giả thuyết nghiên cứu được chấp nhận là H1, H2, H3, H4 và H5, qua kết quả kiểm định mô hình lý thuyết được minh họa như sau: (Hình 2)

Hình 2: Mô hình kết quả nghiên cứu

hinh 2

Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp, nên nghiên cứu này vẫn còn hạn chế:

- Nghiên cứu với cỡ mẫu còn hạn chế, phạm vi chỉ khảo sát tại TP. Hồ Chí Minh.

- Chỉ tập trung vào 5 yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp.

 Tài liệu trích dẫn:

1 Alexandra Wolfe, “Silicon Valley’s Stanford Connection,” Departures (September 2012)

2 Stanford University, “Steve Jobs’ 2005 Stanford Commencement Address” (video), 7 March 2008.

3 Stanford’s Graduate School of Business motto is “Change Lives. Change Organizations. Change the World”.

4 Auletta, sec. 6, para. 6.

5 Vrionis, John, “Applications for Our 2013 Summer Fellowship Program Now Open,” 24 January 2013.

6 Matt Bowling, “The Stanford Research Park: The Engine of Silicon Valley,” n.d.

7 Timothy Lenoir, “Myths about Stanford’s Interactions with Industry,” 6 September 2004, p. 44.

8 “Accel Innovation Scholars,” available from the Stanford Technology Ventures Program - Website, http://stvp.stanford.edu/teaching/ais.html.

9 Eesley and Miller, 8.

Tài liệu tham khảo:

  1. “Accel Innovation Scholars,” available from the Stanford Technology Ventures Program website, http://stvp.stanford.edu/teaching/ais.html.
  2. Auletta, sec. 6, para. 6.
  3. Alexandra Wolfe, “Silicon Valley’s Stanford Connection,” Departures (September 2012).
  4. Astebro, T., Bazzazian, N. & Braguinsky, S. (2012). Startups by recent university graduates and their faculty: Implications for university entrepreneurship policy. Research Policy, 41(4), 663-677.
  5. Eesley and Miller, 8.
  6. Geiger-Ho, M. & Ho, K. (2014). University Art Students Undertake Entrepreneurship Action in Brunei Darussalam. Teaching Artist Journal, 12(3), 155-167.
  7. Lee, S.M. et al. (2006). Influences on students attitudes toward entrepreneurship: A multi-country study. International Entrepreneurship and Management Journal, 2(3), 351-366.
  8. Schaper, M. & Volery, T. (2004). Entrepreneurship and small business: A Pacific Rim perspective. Milton, Queensland, John Wiley and Sons Australia Ltd.
  9. Sobel, R.S. & King, K. (2008). Does school choice increase the rate of youth entrepreneurship? Economics of Education Review, 27(4), 429-438.
  10. Stanford University, “Steve Jobs’ 2005 Stanford Commencement Address” (video), 7 March 2008.

Stanford’s Graduate School of Business motto is “Change Lives. Change Organizations. Change the World.”

  1. Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., and Black, W. C. (1998). “Multivariate data analysis”. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall, 145.
  2. Hoelter, J. W. (1983). Issues and procedures in adopting structural equation modeling technique. pp 76-81.
  3. Timothy Lenoir, “Myths about Stanford’s Interactions with Industry,” 6 September 2004, p. 44.
  4. Matlay, H. & Westhead, P. (2005). Virtual teams and the rise of entrepreneurship in Europe. International Small Business Journal. 12(3), 353-365.
  5. Mason, C. & Brown, R (2014). Entrepreneurial Ecosystems. OECD, The Hague.
  6. Matt Bowling, “The Stanford Research Park: The Engine of Silicon Valley,” n.d.
  7. Vrionis, John, “Applications for Our 2013 Summer Fellowship Program Now Open,” 24 January 2013.

FACTORS AFFECTING THE SUCCESS OF THE STARTUP ECOSYSTEM IN THE UNIVERSITY

MA. LUU HOANG GIANG

Van Hien University

MA. CAO THI THANH TRUC

Van Hien University

ABSTRACT:

The study aims to understand the factors that influence the success of the startup ecosystem in the university. The results of 285 survey samples show the factors (risk-accepting culture; talented, diverse and Imaginative students; abundant capital; cooperation with industry; government support) explain the success of the university startup ecosystem. The results also show that the success of a startup ecosystem has a positive impact from high to low with 5 factors, including: Risk-accepting culture (b = 0.785), Student talent, diversity and imaginative (b = 0.181), government supp ort(b = 0.065), Cooperation with industry (b = 0.061) and abundant capital (b = 0.054).

Keyword: Ecosystem, entrepreneurship, culture, risk, capital, success, Ho Chi Minh City.