Tóm tắt:
Bài viết phân tích quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống ở Ninh Bình, gồm: hộ sản xuất cá thể, hợp tác xã, doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người tiêu dùng. Kết quả cho thấy, quan hệ giữa các chủ thể vừa mang tính liên kết, vừa tồn tại bất cân đối về quyền lực, thông tin và phân phối lợi ích. Đồng thời đó là những hạn chế trong cơ chế chia sẻ lợi ích, vai trò điều phối của hợp tác xã và sự thiếu thống nhất trong chính sách hỗ trợ đang làm giảm hiệu quả Chương trình OCOP. Từ đó, bài viết đề xuất định hướng điều chỉnh thể chế nhằm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể tham gia, tăng cường liên kết và phát triển sản phẩm OCOP bền vững.
Từ khóa: quan hệ lợi ích, sản phẩm OCOP, làng nghề truyền thống, thể chế.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Đảng và Nhà nước xác định: “phát triển kinh tế nông thôn gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống” là một trong những định hướng trọng tâm. Chương trình OCOP (Mỗi xã một sản phẩm) được triển khai từ năm 2018 đã trở thành công cụ chính sách quan trọng, nhằm thúc đẩy sản xuất quy mô nhỏ gắn với lợi thế địa phương, đặc biệt là các sản phẩm từ làng nghề truyền thống.
Tại tỉnh Ninh Bình, sản phẩm OCOP từ các làng nghề như thêu ren Văn Lâm, cói Kim Sơn, đá mỹ nghệ Ninh Vân… không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn phản ánh bản sắc văn hóa địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chuỗi giá trị sản phẩm OCOP đang tồn tại nhiều bất cập trong phân phối lợi ích giữa các chủ thể tham gia như hộ sản xuất, hợp tác xã, doanh nghiệp, chính quyền và người tiêu dùng. Những bất cân xứng về quyền lực thương lượng, tiếp cận thị trường và nguồn lực hỗ trợ đang làm suy giảm hiệu quả của chương trình OCOP, ảnh hưởng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống là cần thiết, nhằm đề xuất định hướng hoàn thiện thể chế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Đảng về phát triển nông thôn toàn diện, công bằng và bền vững.
2. Khái niệm về quan hệ lợi ích trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP
Trong bối cảnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), việc phân tích quan hệ lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị sản phẩm trở thành một hướng tiếp cận cần thiết, nhằm nâng cao hiệu quả phân phối giá trị, đảm bảo tính công bằng và bền vững cho các cộng đồng làng nghề truyền thống. Theo cách tiếp cận chung, lợi ích là tổng thể những kết quả vật chất và phi vật chất mà các chủ thể đạt được thông qua các hoạt động sản xuất - kinh doanh - tiêu dùng, có thể đo lường bằng các chỉ số như thu nhập, lợi nhuận, việc làm, quyền tiếp cận tài nguyên, hoặc mức độ ảnh hưởng đến thị trường [1].
Quan hệ lợi ích trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP được hiểu là tập hợp các mối tương tác kinh tế - xã hội giữa các chủ thể có vai trò, vị thế và mục tiêu khác nhau trong cùng một chuỗi từ sản xuất đến tiêu dùng. Những mối quan hệ này thường không mang tính trung lập, mà luôn hàm chứa yếu tố đàm phán, chia sẻ hoặc cạnh tranh quyền lực nhằm định đoạt cách thức phân bổ lợi ích giữa các bên liên quan (Gereffi & Kaplinsky, 2001; Nguyễn Văn Sửu, 2021). Khi chuỗi giá trị ngày càng mở rộng về không gian và phức tạp về cấu trúc, quan hệ lợi ích giữa các bên có xu hướng phân tầng theo quyền lực kinh tế và khả năng tiếp cận thông tin, tạo nên những bất cân đối đòi hỏi sự điều tiết thể chế phù hợp.
Trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống ở Ninh Bình, có 5 nhóm chủ thể chính, bao gồm: hộ sản xuất cá thể, hợp tác xã/nhóm nghề, doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người tiêu dùng. Hộ cá thể giữ vai trò nền tảng với tri thức bản địa và kỹ năng nghề, nhưng yếu thế trong tiếp cận thị trường. Hợp tác xã làm cầu nối giữa sản xuất và phân phối, song hiệu quả phụ thuộc vào năng lực tổ chức. Doanh nghiệp đảm nhận thương mại hóa và xây dựng thương hiệu, thường chiếm ưu thế về lợi ích. Chính quyền điều tiết bằng chính sách, đầu tư và hỗ trợ, hướng đến phát triển bền vững. Người tiêu dùng là mắt xích cuối cùng, quyết định giá trị thị trường, đồng thời gây áp lực lên sản phẩm về mẫu mã và tiêu chuẩn chất lượng.
3. Tình hình quan hệ lợi ích trong phát triển sản phẩm OCOP từ làng nghề ở Ninh Bình
3.1. Tình hình phát triển sản phẩm OCOP từ làng nghề ở Ninh Bình
Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được triển khai tại tỉnh Ninh Bình từ năm 2018 đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần khai thác tiềm năng kinh tế làng nghề và thúc đẩy phát triển sản phẩm truyền thống gắn với bản sắc địa phương. Tính đến tháng 10/2024, toàn tỉnh Ninh Bình đã có 186 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP, trong đó có 69 sản phẩm đạt 4 sao và 117 sản phẩm đạt 3 sao[1]. Tính đến đầu tháng 7/2025, Ninh Bình có có 980 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, trong đó hơn 80% là sản phẩm thuộc nhóm thực phẩm bao gồm các đặc sản như cơm cháy, ruốc cá rô, mật ong, miến dong, chè dược liệu....[2] Trong khi đó, nhóm sản phẩm tiểu thủ công nghiệp từ làng nghề truyền thống, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ hơn, nhưng lại có giá trị văn hóa và khả năng phát triển thị trường đặc biệt cao.
Một số làng nghề tiêu biểu có sản phẩm OCOP đạt 3 - 4 sao, gồm: gốm Bồ Bát (Yên Mô), thêu ren Văn Lâm (Hoa Lư), trống Đọi Tam (Yên Mạc), mật ong Cúc Phương (Nho Quan) và cơm cháy An Phú (Kim Sơn).
3.2. Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống
Trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống ở Ninh Bình, nhận diện 5 nhóm chủ thể chính, gồm: hộ sản xuất cá thể, hợp tác xã/tổ hợp tác, doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người tiêu dùng, tạo nên một cấu trúc quan hệ lợi ích vừa thống nhất trong mục tiêu phát triển sản phẩm đặc trưng địa phương vừa tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn về quyền lực, thông tin và phân phối lợi ích.
Hộ sản xuất cá thể là lực lượng nòng cốt, nắm giữ kỹ năng thủ công và tri thức bản địa, đóng vai trò tạo ra giá trị đầu tiên cho sản phẩm. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Ninh Bình, toàn tỉnh có khoảng 50 làng nghề truyền thống, trong đó các huyện như Yên Mô, Kim Sơn và Gia Viễn, nổi bật với nghề thêu ren, mây tre đan, chế tác đá mỹ nghệ… Số lượng hộ làm nghề hiện chiếm trên 60% tổng số chủ thể OCOP, nhưng phần lớn vẫn sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn, công nghệ và năng lực tiếp thị. Theo điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn - IPSARD (2023), có đến 70% hộ không tiếp cận được thông tin thị trường và 60% chưa từng tham gia chuỗi phân phối chính thức[3], dẫn đến tình trạng phụ thuộc vào trung gian trong việc định giá và tiêu thụ sản phẩm.
Hợp tác xã và tổ hợp tác giữ vai trò trung gian kết nối hộ sản xuất với các kênh phân phối và chính sách công. Tính đến năm 2024, Ninh Bình có khoảng 130-140 chủ thể OCOP, trong đó trên 40% là hợp tác xã. Một số hợp tác xã tiêu biểu như HTX dược liệu Cúc Phương, HTX mật ong Nho Quan, HTX mây tre đan Kim Sơn… đã góp phần thúc đẩy tiêu chuẩn hóa và nâng sao OCOP cho nhiều sản phẩm, trong đó mỗi sản phẩm 3 - 4 sao được hỗ trợ từ 75 đến 100 triệu đồng từ ngân sách nhà nước[4]. Tuy vậy, nhiều HTX còn thiếu năng lực điều hành và minh bạch nội bộ, khiến việc phân phối lợi ích không đồng đều giữa các thành viên. Doanh nghiệp là nhóm chủ thể chiếm ưu thế trong thương mại hóa và xây dựng thương hiệu OCOP, nhờ nắm giữ công nghệ chế biến và kênh phân phối. Trong tổng số 211 sản phẩm OCOP đã xếp hạng ở Ninh Bình (tính đến đầu năm 2025), hơn 70 sản phẩm đạt 4 sao, chủ yếu thuộc các doanh nghiệp có năng lực logistics và chiến lược marketing rõ ràng[5]. Tuy nhiên, theo phản ánh của một số cơ sở như OCOP Hương Hồng Hạc (Nho Quan), doanh nghiệp vẫn đối mặt với chi phí bán hàng cao, đặc biệt là thuế và phí sàn thương mại điện tử lên tới 25% doanh thu[6]. Trong khi đó, chính quyền địa phương đóng vai trò điều tiết thể chế thông qua xây dựng khung chính sách OCOP, hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn nhân lực và quảng bá sản phẩm. Chương trình OCOP được triển khai tại Ninh Bình từ năm 2018, đến nay, toàn tỉnh đã đóng góp gần 6% tổng số sản phẩm OCOP cấp quốc gia. Tuy nhiên, việc phối hợp giữa các sở, ngành, vẫn thiếu thống nhất, chưa xây dựng được cơ chế điều phối lợi ích công tư hiệu quả. Ở đầu cuối của chuỗi giá trị là người tiêu dùng nhóm có vai trò quyết định trong việc tạo ra giá trị thị trường cho sản phẩm. Nhu cầu gia tăng đối với sản phẩm xanh, thân thiện môi trường, có nguồn gốc địa phương đang thúc đẩy các hộ sản xuất cải tiến mẫu mã và quy trình sản xuất. Tuy nhiên, nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm còn hạn chế, cho thấy vấn đề minh bạch thông tin vẫn là rào cản lớn.[7]
Thực tế cho thấy, quan hệ lợi ích giữa các chủ thể OCOP ở Ninh Bình vẫn đang tồn tại nhiều bất cân đối. Hộ sản xuất nhóm tạo ra giá trị nền tảng nhưng là nhóm yếu thế nhất về quyền thương lượng, thông tin và thu nhập. Hợp tác xã và doanh nghiệp nắm giữ vai trò tổ chức và thương mại hóa, nhưng cũng nảy sinh mâu thuẫn về chia sẻ lợi ích và minh bạch tài chính. Chính quyền địa phương tuy có vai trò định hướng và hỗ trợ, song thể chế điều phối còn phân tán, chưa đủ mạnh để cân bằng quan hệ giữa các tác nhân. Cuối cùng, người tiêu dùng dù có ảnh hưởng lớn - lại thiếu thông tin chuẩn xác, khiến thị trường OCOP thiếu ổn định. Chính những lệch pha về lợi ích này là yếu tố cản trở sự phát triển bền vững sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống, đòi hỏi cần có thiết kế thể chế hợp lý hơn trong thời gian tới.
3.3. Một số vấn đề thể chế trong điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống
Một là, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích minh bạch giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị OCOP. Mặc dù Ninh Bình đã ban hành các văn bản hỗ trợ phát triển OCOP như Nghị quyết số 32/2022/NQ‑HĐND ngày 15 tháng 7 năm 2022 về việc “Quy định chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2022 - 2025”, quy định mức hỗ trợ tài chính cho sản phẩm OCOP đạt từ 3 đến 5 sao, nhưng các chính sách này mới chỉ dừng ở việc khuyến khích phát triển sản phẩm mà chưa thiết lập được cơ chế giám sát, phân chia lợi ích một cách công khai, rõ ràng giữa hộ sản xuất, hợp tác xã và doanh nghiệp. Trên thực tế triển khai, các hộ sản xuất dù là lực lượng tạo ra giá trị đầu tiên vẫn thường rơi vào thế yếu khi không được chia sẻ công bằng lợi nhuận từ thương mại hóa sản phẩm. Điều này làm nảy sinh tâm lý hoài nghi, giảm động lực tham gia vào chuỗi giá trị OCOP.
Hai là, vai trò của hợp tác xã và tổ chức trung gian trong điều phối lợi ích còn hạn chế. Các văn bản như Kế hoạch số 38/KH‑UBND ngày 20 tháng 02 năm 2025 về việc “Thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tỉnh Ninh Bình năm 2025” và một số kế hoạch khác khẳng định hợp tác xã là chủ thể tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, kết nối thị trường và đại diện lợi ích cho nhóm hộ sản xuất. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều hợp tác xã ở Ninh Bình vẫn hoạt động mang tính hình thức, chưa được đào tạo bài bản về quản trị chuỗi, thiếu công khai tài chính và lúng túng trong phân phối thu nhập cho các thành viên. Vai trò cầu nối giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ chưa rõ ràng, khiến mối quan hệ giữa các chủ thể dễ xảy ra xung đột hoặc rạn nứt.
Ba là, còn hạn chế trong mối quan hệ giữa liên kết dọc - ngang và còn tồn tại tình trạng phân tán trong điều hành chính sách OCOP. Dù chương trình OCOP đã được tỉnh Ninh Bình triển khai từ năm 2018 và từng bước mở rộng, song các chính sách hỗ trợ vẫn nằm rải rác ở nhiều cơ quan như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công Thương, Sở Khoa học - Công nghệ, Sở Văn hóa - Du lịch… mà chưa có một cơ chế phối hợp liên ngành chặt chẽ. Hệ quả là các chủ thể OCOP, đặc biệt là hộ sản xuất và hợp tác xã, phải tự xoay xở trong quá trình tiếp cận chính sách, thiếu thông tin đồng bộ và không có đầu mối hỗ trợ rõ ràng. Sự thiếu kết nối này không chỉ làm giảm hiệu quả chính sách, mà còn khiến chuỗi giá trị OCOP khó vận hành bền vững, đặc biệt trong bối cảnh thị trường liên tục biến động.
4. Định hướng hoàn thiện thể chế điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị sản phẩm OCOP từ làng nghề truyền thống tỉnh Ninh Bình
Một là, xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích công khai, minh bạch giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị. Thể chế OCOP địa phương cần bổ sung quy định cụ thể về tỷ lệ phân chia lợi ích theo mức độ đóng góp, đảm bảo hộ sản xuất lực lượng tạo ra giá trị nền tảng không bị thiệt thòi trong đàm phán. Các hợp đồng hợp tác giữa hộ, hợp tác xã và doanh nghiệp cần được soạn thảo dựa trên nguyên tắc bình đẳng, có cơ chế giám sát từ phía chính quyền hoặc hội nghề nghiệp. Đồng thời, cần thiết lập hệ thống công khai hóa thông tin về doanh thu, chi phí, phân phối lợi nhuận trong chuỗi OCOP đặc biệt đối với các sản phẩm đã được Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc xúc tiến thương mại.
Hai là, nâng cao vai trò điều phối của hợp tác xã và tổ chức trung gian thông qua chuyên nghiệp hóa mô hình quản trị. Chính quyền cần có lộ trình đào tạo và chuẩn hóa cán bộ hợp tác xã về kỹ năng quản trị chuỗi giá trị, tài chính và pháp lý hợp đồng. Các hợp tác xã OCOP không chỉ dừng ở vai trò tổ chức sản xuất mà phải được trao quyền thực hiện các chức năng phân phối, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu tập thể. Đồng thời, cần khuyến khích sự hình thành các tổ chức trung gian như hiệp hội ngành nghề, tổ tư vấn OCOP cấp xã/huyện để tạo thêm tầng liên kết và cân bằng lợi ích giữa các bên.
Ba là, thiết lập cơ chế liên kết dọc - ngang và điều phối chính sách OCOP đồng bộ giữa các ngành, cấp. Tỉnh Ninh Bình nên thành lập tổ điều phối liên ngành về OCOP do một cơ quan thường trực chủ trì, có nhiệm vụ kết nối chính sách giữa các sở, ban, ngành liên quan đến OCOP, như: Công Thương, Khoa học Công nghệ, Tài chính… Bên cạnh đó, cần xây dựng một cơ sở dữ liệu dùng chung về chủ thể OCOP, thị trường, sản phẩm, hỗ trợ kỹ thuật… để các nhóm hộ, hợp tác xã và doanh nghiệp có thể tiếp cận minh bạch, thay vì phải tìm hiểu manh mún qua từng kênh riêng lẻ như hiện nay.
Bốn là, tăng cường vai trò định hướng thị trường và nâng cao năng lực cho người tiêu dùng trong chuỗi OCOP. Nhà nước không chỉ dừng ở việc hỗ trợ sản xuất, mà cần đi xa hơn trong công tác tuyên truyền, giáo dục người tiêu dùng về giá trị văn hóa - sinh thái của sản phẩm làng nghề truyền thống. Các chiến dịch truyền thông, hội chợ và chương trình OCOP vào trường học có thể giúp hình thành thị trường tiêu dùng bền vững, giảm sức ép “thương mại hóa cực đoan” lên các hộ sản xuất. Khi người tiêu dùng trở thành lực lượng đồng hành thay vì chỉ là “người mua”, quan hệ lợi ích trong chuỗi giá trị OCOP sẽ dần trở nên hài hòa và ổn định hơn./.
Tài liệu trích dẫn:
[1] Đỗ Thọ (2024). “Ninh Bình có 186 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP”. Truy cập tại https://nbtv.vn/ninh-binh-co-186-san-pham-duoc-cong-nhan-dat-chuan-ocop-80721.html
[2] Langngheviet (2025). “OCOP Ninh Bình - Chia sẻ kinh nghiệm lan tỏa tinh hoa Việt”. Truy cập tại https://langngheviet.com.vn/ocop-ninh-binh-chia-se-kinh-nghiem-lan-toa-tinh-hoa-viet-ra-the-gioi-33429.html
[3] IPSARD (2023), “Điều tra thực trạng hộ sản xuất tham gia OCOP khu vực miền Bắc,” Hà Nội
[4] UBND tỉnh Ninh Bình (2023), “Kế hoạch hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP năm 2023”, Ninh Bình
[5] OCOP Việt Nam, “Cơ sở dữ liệu sản phẩm OCOP quốc gia,” [Online]. Available https://ocopvietnam.gov.vn
[6] Liên minh HTX Việt Nam (VCA) (2025), “Báo cáo điều tra hiệu quả sản phẩm OCOP khu vực đồng bằng sông Hồng,” Hà Nội
[7] Hồng Nhung - Anh Tuấn (2025), “Kết nối cung cầu, tiêu thụ nông sản, sản phẩm OCOP và đối thoại doanh nghiệp”. Truy cập tại https://baoninhbinh.org.vn/ket-noi-cung-cau-tieu-thu-nong-san-san-pham-ocop-va-doi-509852.htm
Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Văn Bộ (2000), “Phát triển nông nghiệp giá trị cao theo chuỗi giá trị”, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
G. Gereffi và R. Kaplinsky (Eds.) (2021), The Value of Value Chains: Spreading the Gains from Globalization, Institute of Development Studies.
Nguyễn Văn Sửu (2021), “Quan hệ lợi ích trong phát triển nông nghiệp: Một cách tiếp cận thể chế,” Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 299, tr. 28-34.
NBTV (2024), “Ninh Bình có 186 sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP”. Truy cập tại https://nbtv.vn/ninh-binh-co-186-san-pham-duoc-cong-nhan-dat-chuan-ocop-80721.html
Langngheviet (2025), “OCOP Ninh Bình - Chia sẻ kinh nghiệm lan tỏa tinh hoa Việt”. Truy cập tại https://langngheviet.com.vn/ocop-ninh-binh-chia-se-kinh-nghiem-lan-toa-tinh-hoa-viet-ra-the-gioi-33429.html
IPSARD (2023), “Điều tra thực trạng hộ sản xuất tham gia OCOP khu vực miền Bắc”, Hà Nội.
UBND tỉnh Ninh Bình (2023), “Kế hoạch hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP năm 2023”, Ninh Bình.
Chương trình Quốc gia Mỗi xã một sản phẩm Ocop (2000), Ninh Bình: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho sản phẩm OCOP. Truy cập tại http://ocop.gov.vn/tin-tuc-su-kien/tin-tieu-diem/ninh-binh-day-manh-xuc-tien-thuong-mai-cho-san-pham-ocop.html
Liên minh HTX Việt Nam (VCA) (2025), “Báo cáo điều tra hiệu quả sản phẩm OCOP khu vực đồng bằng sông Hồng” Hà Nội.
Hồng Nhung - Anh Tuấn (2025), “Kết nối cung cầu, tiêu thụ nông sản, sản phẩm OCOP và đối thoại doanh nghiệp”. Truy cập tại https://baoninhbinh.org.vn/ket-noi-cung-cau-tieu-thu-nong-san-san-pham-ocop-va-doi-509852.htm
Stakeholder interest relations in the development of OCOP products from traditional craft villages in Ninh Binh province: An institutional perspective
Doi Gia Thien Linh
Hanoi Pedagogical University 2
Abstract:
This study examines the benefit-sharing relationships among key stakeholders in the value chain of OCOP (One Commune One Product) goods originating from traditional craft villages in Ninh Binh Province. The analysis focuses on individual producers, cooperatives, enterprises, local government, and consumers. Findings reveal that although collaborative relationships exist, substantial imbalances persist in terms of power dynamics, access to information, and benefit distribution. Institutional shortcomings, including the absence of transparent benefit-sharing mechanisms, the limited coordinating capacity of cooperatives, and fragmented support policies, are constraining the effectiveness of the OCOP program. In response, the paper proposes institutional reform directions aimed at balancing stakeholder interests, strengthening value chain linkages, and fostering the sustainable development of OCOP products.
Keywords: stakeholder interest relations, OCOP products, traditional craft villages, institutions.